Trong Bát Nhã Tâm Kinh có câu kệ: " Sắc bất dị không,Không bất dị sắc "
Khi đọc đến câu kệ này chúng ta không làm sao hiểu được nghĩa là sao :
" Cuộc đời sắc sắc không không, không tức thị sắc, sắc tức thị không " ?
Đó là lời của kinh nếu ta đem ra giảng giải theo cái lý luận của trí óc thì thiệt không thể nào mà hiểu được câu kệ trên là ý gì và vì sao chư Phật lại nói như vậy ?
Rồi khi ta đọc bài của Bé Hạt Tiêu chúng ta mới cảm nhận ra được cái " mùi của kinh " nó phảng phất trong từng lời từng chữ của một đứa bé mà chưa hề đọc qua bất kỳ một cuốn kinh nào, kể cả tiếng Việt cũng chưa rành lắm, thế mà khởi đầu suy nghĩ đã viết rằng "Có mà không, không mà có " .
https://www.hoasentrenda.com/smf/index.php?topic=187.0Làm cho người hay suy nghĩ về câu kệ này cũng phải giựt mình vì cái lối nói và diễn giải nó qúa trùng hợp nhưng lại giản dị mộc mạc đến không ngờ ..Làm sao một đứa bé lại nhìn cuộc đời mà thâu tóm lại trong một câu đầy triết lý của nhà Phật như thế …Nó không đọc kinh, nó không thuộc kinh nhưng nó lại nói y kinh !! Phải chăng khi tu tập thì tự nhiên lời kinh nó sẽ "vỡ" ra cho chúng ta hiểu.
Một sai lầm lớn lao thông thuờng mà nguời ta hay mắc phải là cứ tuởng rằng sự hiểu biết về tôn giáo chỉ nằm trong đầu óc, lý luận, phân tích từng câu từng lời, từng chữ của kinh, và hiểu nó như cách học từ chương hiểu bài trong
truờng lớp vậy. Căn bệnh của những con " mọt sách " chỉ biết lý thuyết mà không có kinh nghiệm thực hành.
Học phật pháp đuợc hiểu bằng trái tim và nguồn cảm hứng đó đuợc vận chuyển bởi sức mạnh định lực của tâm thì lời kinh mới có thể sống đuợc trong tâm nguời ..Còn không thì nó vẫn là những ngôn từ ráo rỗng và chỉ là một thứ ngôn ngữ vô hồn không có tâm lực.
Khi nguời ta thực hành lời kinh đó qua rồi chỉ lại cho mình là giống như nguời ta truyền dạy luôn cái tâm lực của họ trong đó cho mình.
Lời chỉ dạy như có cái hồn thiêng của lời kinh, lời truyền đạt mang một cái lực vô cùng mạnh mẽ ở nguời chỉ dẫn nhắm ngày tâm điểm nguời hỏi mà bổ tới. Khi nguời hỏi và nguời chỉ đuờng ( Thầy ) làm thành một khối: " đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu " thì mình làm theo đó sẽ thấy đuợc sức mạnh của lời kinh mà đã đuợc thực hành nó như thế nào đối với nguời đi cầu Đạo và học Đạo ?!.
Ta hiểu đuợc kinh là khi nào ta có thể đem kinh vận hành vào đời sống của mình và nó có một tác dụng thay đổi trong tâm linh mình thì khi đó mới phần nào gọi là " hiểu kinh " Còn nếu đọc và tụng kinh mà không cảm thấy một chút gì ứng dụng đuợc cho đời sống cho tâm linh mình thì đọc và tụng đó cũng như một cái máy đọc kinh linh động vậy thôi !
Chúng ta luôn hảnh diện vì đã nghiên cưú nắm vững nhiều triết lý của nhiều kinh sách, nhưng thật ra thâm tâm chúng ta vẫn còn đang mê muội, không hề được điều phục bởi tâm.
Tri kiến về tâm linh cốt là để giảm bớt thành kiến về hạn cuộc, khắc phục mê muội. Khi nghiên cưú về Tâm linh bằng trí thức thì tâm và trái tim ta vẫn bất động, thì cũng chẳng có tác dụng gì cả.
Lời kinh cần được chứng nghiệm bằng kinh nghiệm sống động về một thực tại tâm linh mãnh liệt cùng công hiệu của nó lên trên đời sống thực thụ của chúng ta thì đó mới phần nào được gọi là hiểu kinh.
Nghiã là điều đó phải có hiệu lực trong tâm mình và thể hiện được ra ngoài bằng hành động của mình.
Như trong việc " Độ sanh: chỉ cho người khác tu tập và Độ Tử: giúp người ta bên cõi giới vô hình. Đó là hình ảnh của những Bồ Tát trên tiếp thông với Chư Phật, dưới phổ độ chúng sanh tu hành.
Nếu không thì " cửa sổ tâm linh " của chúng ta vẫn khép chặt lại, không thể thấy và hiểu được kinh là như thế nào, cho dù có nghiên cưú bao nhiêu sách vở đi nữa thì cũng cầm bằng nói dốc nghe cho vui tai thế thôi !
Khi đi lạc vào cái chuà " trên trời " này chúng ta thấy rất là lạ lùng ..
Ngôn từ trong đây không hề giống những từ ngữ trong kinh hay rao giảng.
Họ có hẳn một phương pháp thực tiễn được đặt ra một cách khoa học và khúc chiết minh bạch, nếu đi theo chỉ dẫn của người dẫn đường, thì chúng ta sẽ có được một kết quả là một Tâm Thức hoàn toàn biến đổi.
Ta không cần chấp nhận một tín ngưỡng bất thường nào, chỉ cần tuân theo chỉ dẫn, thì những kinh nghiệm tự động xảy đến với chúng ta.
Nhờ cách tập trung nguồn năng lực có sẵn trong thân tâm ta vào một đề mục được an trú chánh niệm đằng trước mặt thì phép màu nhiệm sẽ xảy đến trong mỗi chúng ta. Đó là một kinh nghiệm thực tại có một chuyển biến sâu xa. Điều đó thật là đơn giản và trực chỉ một cách rõ ràng.
Bởi vậy, nếu chúng ta đã muốn làm một điều gì đó để thay đổi cuộc đời vô vọng này của mình, thì phải có một tâm lực mãnh liệt lao vào con đường tâm linh này như ta đã từng dồn hết tâm lực cho việc kiếm tiền tài vật chất vậy !
Những lý thuyết triết học dù cao siêu vĩ đại đến đâu cũng không thể nào giúp ta ra khỏi những khủng hoảng rối ren khi tâm ta chìm trong những cảm xúc bất thường, cái hiểu của trí óc không chạm được tới tâm và con tim thì chỉ là cái biết rất hời hợt mà khi đụng chuyện thì ta vẫn thấy mình bị nhấn chìm trong những cảm xúc bất an như thường . Chúng ta cần một sức mạnh thật sự của tâm, chứ không phải cái hiểu theo kiểu " thế trí biện thông " không thể nào dùng kiểu: " đạt lý thông kinh " để mà tu hay học đạo được.
Dù có nói hay cách mấy đi nữa hay phân tích giỏi đến đâu, thì ngôn từ cũng chỉ xuất phát từ cái tâm phân biệt có giới hạn và cũng chỉ thấu hiểu bằng cái tâm phàm tình hạn cuộc. Điều cần thiết cho người học đạo tu tập theo đạo là phải tiếp xúc được với chính kinh nghiệm của mình, vượt ra ngoài danh từ ngôn ngữ dùng để điễn đạt kinh nghiệm ấy. Đó là lý do khiến pháp tu tập này đặt nặng hành động hơn lý thuyết suông.
Đọc trong đây ta thấy có bài của Lestrange viết kể lại khi bé lên Liên Hoa Tạng gặp Đức Phật và tả lại toàn cảnh giới trong kinh đã nói đến
https://www.hoasentrenda.com/smf/index.php?topic=513.0Đây hoàn toàn là những đứa bé mù kinh, mù tiếng Việt trong kinh, nhưng chúng nói lại kinh điển bằng những ngôn từ vượt ra ngoài kinh để diễn tả lại về kinh bằng chính kinh nghiệm của tâm linh thực chứng của mình trong qúa trình tu tập mà chúng đã thấy được.
Từ trước giờ chúng ta muốn tu tập, nhưng chúng ta thiếu hẳn những tấm gương bằng xương bằng thịt mà đã thật sự giác ngộ trên đường tu tập để làm nguồn cảm hứng, hay một sự gia trì cho tâm linh. Nay chúng ta như được thuyết phục bởi những kinh nghiệm sống động về một thực tại tâm linh mãnh liệt cùng hiệu lực của nó lan truyền vào đời sống thật của chúng ta, để nghĩ lại chính mình trong cách tu tập.
Khi chúng ta tìm thấy được những con người đã vượt ra ngoài ngã chấp, những con người không còn bận tâm đến những nhỏ nhen về cuộc đời này vẫn còn sống trên đời, những người nói và làm bằng tâm trí của một vị Phật và thực sự hiến mình cho sự an lạc của tất cả, thì khi ấy trong ta cũng có thể dấy lên niềm tin tưởng rằng mình cũng có thể đạt được đến thực chứng ấy …
Nếu không có những điển hình bằng xương bằng thịt ấy thì kinh điển vẫn còn là những điều trong huyền thoại của cổ tích ngày xưa, còn thực tại chỉ là những điển hình của tham lam và thù hằn ganh ghét và đố kỵ ..thì tâm ta sẽ bị hạn cuộc một cách thê thảm và tầm nhìn của ta về mình sẽ ra sao ??
Nhờ những hiện tượng " Hoà Thượng Nhí, Bồ Tát Nhí " như khơi lại cái hùng lực ngày xưa vàng son của thời Đức Phật còn tại thế như vậy, mới có thể thuyết phục được cái thế gian đang vở mộng này và chứng minh cho mọi người thấy rằng Tâm linh vẫn còn sống động rất mạnh mẽ mặc dù đã truyền thưà từ 2500 năm về trước.
Đối với Tâm Linh có đôi lúc chúng ta không nên làm một hoạt động tri thức phân tích nào cả. Đôi khi chính cái ý tưởng phân tích trong tu tập đã vô tình làm gián đoạn sự " thành tưụ " của bạn trên bước đường tâm linh.
Vì sao lại như vậy ? Vì khi sử dụng tri thức thì tự nhiên đủ thứ quan niệm mê tín và thành kiến này nọ sẽ theo đó mà khởi lên. Tâm mình sẽ trở nên rối ren và bận biụ rồi rung động theo năng lực cảm xúc bất thường của những khái niệm đó. Rồi vì mỗi trạng thái tâm đều tương ứng với những khí lực của nó, nên hệ thần kinh của vi tế tâm cũng rung động vì những luồng khí lực chống nhau.
Điều này ảnh hưởng đến tu tập. Trên con đường tâm linh có lúc ta sử dụng tri thức nhưng có lúc ta cần phải gạt tri thức qua một bên là vậy đó.
Vào một lúc nào đó, chúng ta sẽ hiểu rằng mình phải cần từ bỏ lối hiểu mọi sự theo triết lý biện luận. Kinh cần phải vượt ra ngoài tranh biện và lý luận.
Nếu cứ bị vướng vào thành kiến của tri thức, thì con người ta không đi vào những kinh nghiệm thiền qúan sâu xa được.