[..]
Ngũ Hành Tương SinhTương Sinh không có nghĩa là cái này đẻ ra cái kia, cái này sinh ra cái kia. Tương sinh có nghĩa yếu tố này là nguyên nhân của yếu tố kia, yếu tố này xảy ra trước yếu tố kia, hoặc giai đoạn này tiếp bởi giai đoạn kia, giai đoạn này chuyển tới giai đoạn kia. Sự tiếp nối đó thuận hướng tăng dần tiến dần theo chiều Dương, từ Thổ, Kim, Thủy, Mộc và sau cùng là Hỏa.
(xem hình h5)Thổ sinh Kim (ý nghĩa thực là đất sinh ra kim khí), tượng trưng cho yếu tố bất động chuyển tới yếu tố co được, giãn được. Tượng trưng cho giai đoạn yên tĩnh chuyển tới giai đoạn có chút chuyển động, tượng trưng cho giai đoạn trung tính đến giai đoạn tìm thế kiến tạo năng lượng.
Kim sinh Thủy (ý nghĩa thực là kim khí chảy ra nước), tượng trưng yếu tố ở thể đạc và lỏng (thủy ngân) chuyển tới thể lỏng hoàn toàn. Tượng trưng cho giai đoạn bắt đầu chuyển động (co giãn) đến giai đoạn toàn toàn chuyển động, tượng trưng cho giai đoạn tìm thế kiến tạo năng lượng đến giai đoạn thực sự kiến tạo năng lượng.
Thủy sinh Mộc (ý nghĩa thực là nước sinh ra cây cỏ), tượng trưng cho sự vô cơ chuyển tới hữu cơ, từ vô sinh chuyển tới hữu sinh. Tượng trưng cho thể động tiêu cực, bị động đến thể động tích cực, tự động. Tượng trưng cho giai đoạn thực sự kiến tạo năng lượng đến giai đoạn tìm thế hoạt động.
Mộc sinh Hỏa (ý nghĩa thực là gỗ đốt thành lửa), tượng trưng cho sự tổng hợp (cây cỏ) chuyển đến sự sử dụng, bộc phát. Tượng trưng cho sự thăng phát sinh trưởng đến chỗ tăng trưởng bành trướng cực điểm. Tượng trưng cho giai đoạn tìm thế hoạt động chuyển đến giai đoạn thực sự hoạt động. (Từ tích trữ năng lượng đến sử dụng năng lượng).
Hỏa sinh Thổ (ý nghĩa thực sự là lửa cháy xong thành đất), tượng trưng cho cực điểm trở về trung tính, cực đại trở về cực tiểu. Tượng trưng cho giai đoạn bộc phát sử dụng năng lượng trở về giai đoạn bắt đầu.
Ngũ Hành Tương KhắcTương khắc không có nghĩa yếu tố này chống đối yếu tố kia, không có nghĩa kim khí chặt đứt cây cỏ, nước dập tắt lửa, lửa đốt tan kim khí… Tương khắc chỉ có nghĩa tính chất của yếu tố này đối nghịch với tính chất của yếu tố kia. Như tính chất của Thủy mát mẻ đối nghịch với tính của Hỏa nên bảo Thủy khắc Hỏa. Tính của Kim thu teo, tính của cây cỏ thăng phát nên bảo Kim khắc Mộc. Ngoài ra tương khắc còn xảy ra lúc hai tính chất đối nghịch của hai yếu tố đứng lẫn vào nhau, hoặc giai đoạn năng lượng không theo thứ tự thuận chuyển theo chiều Dương mà đứng lẫn vào địa vị của nhau ở mức độ cực bất cập hoặc cực thái quá cũng gọi là tương khắc.
Thổ khắc Thủy (ý nghĩa thực: đất ngăn chặn được nước), tượng trưng cho tính chất tĩnh như Thổ khắc tính chất lưu hoạt như Thủy. Tượng trưng cho tính ẩm ướt và nóng của Thổ đối nghịch với tính lạnh ráo (mùa Đông) của Thủy. Ví dụ mùa Trường Hạ (tháng sáu) đối nghịch với tính lạnh giá của mùa đông.
Kim khắc Mộc (ý nghĩa thực: kim khí chặt được gỗ), tượng trưng cho tính thu teo (của Kim) nghịch với tính thăng phát (của Mộc). Ví dụ khí hậu Thu nằm trong mùa Xuân.
Thủy khắc Hỏa (ý nghĩa thực: nước dập tắt lửa), tượng trưng cho tính lạnh ướt (của Thủy) nghịch với tính nóng cháy (của lửa). Ví dụ khí hậu mùa Đông nằm trong mùa Hạ.
Mộc khắc Thổ (ý nghĩa thực: Cây ăn mòn đất), tượng trưng tính thăng phát (của Mộc) nghịch với tính trung tính bất động (của Thổ). Ví dụ khí hậu Xuân nằm trong mùa Trường Hạ (cây trái chỉ xanh tươi mà không già chín được).
Hỏa khắc Kim (ý nghĩa thực: lửa đốt cháy kim khí chảy), tượng trưng tính đốt cháy, nóng bỏng, bành trướng (của Hỏa) nghịch với tính co rút, lạnh lẽo (của Kim). Ví dụ khí hậu mùa Hạ nằm trong mùa Thu (cây trái vẫn bành trướng không chín kịp, không thu teo để chuẩn bị cho giấc ngủ mùa Đông).
Khí hậu Trường Hạ nằm trong mùa Đông; khí hậu mùa Thu nằm trong Xuân; khí hậu mùa Đông nằm trong Hạ; khí hậu mùa Xuân nằm trong Trường Hạ; khí hậu mùa Hạ nằm trong mùa Thu đều là hình thức giai đoạn năng lượng không chuyển hóa theo thứ tự thuận chuyển, mà ngược lại đứng lẫn vào nhau ở các vị trí cực bất cập hoặc cực thái quá nên gọi là tương khắc. Ngũ Hành Thuận chuyển là bắt đầu từ Thổ (giai đoạn 0) rồi tới Kim (1), Thủy (2), Mộc (3) và sau cùng là Hỏa (4). Nay không thuận chuyển mà lại cực bất cập hoặc cực thái quá.
Cực bất cập tức thụt lùi hai giai đoạn: giai đoạn 2 lùi về giai đoạn 0, 3 lùi về 1, 4 lùi về 2. Cực bất cập là Âm khắc Dương. Như mùa Hạ mà có khí hậu của mùa Đông là Thủy khắc Hỏa.
Cực thái quá tức nhảy vụt ba giai đoạn: giai đoạn 0 nhưng vọt lên giai đoạn 3, 1 lên 4. Cực thái quá là Dương khắc Âm. Như khí hậu Hạ nằm trong mùa Thu là Hỏa khắc Kim.
Tặc tà trong bệnh lý ngũ tà là hình thức tương khắc của ngũ hành.
[…]
Âm Dương trong Ngũ Hành:Không đâu không có Âm Dương, Ngũ Hành cũng có Âm Dương: Thổ có Âm Thổ và Dương Thổ, Kim có Âm Kim và Dương Kim… Như Dần Mão thuộc Mộc; Dần thuộc Dương Mộc, Mão thuộc Âm Mộc.. Tỳ Vị đều là Thổ; Tỳ thuộc Âm Thổ, Vị thuộc Dương Thổ (Tạng thuộc Âm, Phủ thuộc Dương). Tuy nhiên, nếu tính về năm hành thì Thổ trung tính, Kim và Thủy thuộc Âm, Mộc và Hỏa thuộc Dương.
Tính phản quĩPhản quĩ được dịch từ chữ Feedback. Phản quĩ có nghĩa đáp quà (ú đi dì lại), người ta biếu quà thì mình biếu lại. Thật ra Feedback-phản quĩ có nghĩa rất rộng; tuy nhiên, ở đây chỉ dùng giới hạn trong y học. Phản quĩ có hai loại: phản quĩ nghịch (Negative Feedback) và phản quĩ thuận (Positive Feedback).
Phản quĩ nghịch (PQN).PQN là một hệ thống kiểm soát sự điều hòa và tính ổn định của sự sống. Trong cơ thể có hàng ngàn hệ thống kiểm soát bao gồm mỗi tế bào, mỗi bộ phận của mỗi cơ quan, ngoài ra hệ thống kiểm soát còn điều hòa sự sinh hoạt giữa các bộ máy trong cơ thể để toàn diện làm việc cùng một nhịp độ. Ví dụ trong máu dẫn thán khí (CO2 ) đến phổi rồi lấy dưỡng khí từ phổi thì tụy tạng và gan điều hòa lượng đường trong máu, cùng lúc thận lo đào thải nước tiểu và tái hấp thụ các khoáng chất cần thiết..vv…
Để rõ tính PQN, lấy một vài ví dụ:
- Lúc ta đói bụng vì lượng glucose trong máu giảm, Hạ Bộ Thị Khâu (HBTK -Hypothalamus) kích thích chúng ta tìm thực phẩm. Sau lúc ăn, máu đầy đủ glucose, HBTK cho ta biết đã no, đừng ăn nữa.
- Khát cũng vậy, khi trong người thiếu nước, trung tâm khát ở HBTK bị kích thích làm ta cảm thấy khát. Sau lúc uống nước đủ, trung tâm khát không còn kích thích, ta hết khát và ngừng uống.
- Về sự cung cấp Oxygen (O2) và đào thải thán khí (CO2): khi máu mang O2 đến các tế bào, nếu tế bào đã đủ Oxy thì PQN một mặt không cho máu nhả Oxy, một mặt không cho tế bào hấp thu thêm Oxy nữa. Riêng vấn đề hô hấp, khi làm việc nặng nhọc hoặc tập thể thao.vv… thở nhiều, cơ thể đốt cháy nhiều thức ăn tạo nhiều thán khí và lấy thêm Oxy. Trường hợp thán khí quá thấp thì PQN làm giảm thở để cho thán khí tăng thêm. Đối với áp huyết cũng được PQN kiểm soát: các mạch máu lớn ở phần trên cơ thể, đặc biệt động mạch cổ (carotid arteries) có áp thụ tử (baroreceptor) đẻ cảm nhận áp huyết. Nếu áp huyết cao thì áp thụ tử sẽ chuyển dấu hiệu đến trung tâm não tủy, từ trung tâm não tủy sẽ chuyển mệnh lệnh đến trung tâm co giãn mạch máu (vasomotor center). Từ đây hệ trực giao cảm được mệnh lệnh giảm hoạt động nên tim đập chậm hơn, mạch máu ngoại biên giãn làm cho áp huyết giảm tới mức bình thường. Nếu áp huyết giảm quá, ngược lại, hệ PQN lại hoạt động ngược lại với trường hợp áp huyết cao và làm cho áp huyết tăng lên đến mức bình thường.
Tất cả trên là PQN – là hệ thống kiểm soát mọi hoạt động của mọi tế bào, của mọi cơ quan, và của mọi bộ phận để tất cả hoạt động một cách hòa điệu bất kể thời gian và không gian để giữ vững tính ổn định của Nội Môi Trường. Nếu các tế bào hoặc bất cứ một cơ quan hoặc một bộ phận nào hoạt động lạc nhịp, không chia sẻ tính hòa điệu toàn diện thì sự ổn định của Nội Môi Trường sẽ không còn và dẫn đến bệnh tật, dẫn đến sự chết.
Như vậy, PQN là một hình thức phản ứng ngược với kích thích ban đầu. Kích thích ban đầu làm tăng thì PQN làm giảm. Ngược lại, kích thích ban đầu làm giảm thì PQN làm tăng. Tăng hay giảm của PQN không ngoài mục đích giữ cho mọi hoạt động của tế bào, của cơ quan và của toàn cơ thể luôn làm ở thế quân bình và ổn định.
Phản Quĩ Thuận (positive feedback): PQN giúp sự sống điều hòa, tồn tại. Ngược lại, Phản Quĩ Thuận (PQT) dẫn tới sự chết. Ví dụ:
- Đói ăn: HBTK có trung tâm “Đói và khát”. Khi trung tâm này kích thích chúng ta cảm thấy đói, chúng ta ăn. Với PQN sẽ làm ta ngừng ăn khi đã no. Ngược lại PQT mặc dầu đã no, vẫn kích thích chúng ta ăn. Ăn không biết no, ăn mãi dẫn tới bội thực mà chết.
- Khát cũng vậy, trung tâm khát kích thích, ta nghe khát, uống và uống hoài vì PQT vẫn kích thích chúng ta uống, uống hoài mà chết.
- Trường hợp xuất huyết: một người xuất huyết một lít máu, với PQN, tim phải đập nhanh để máu luân lưu trong cơ thể đủ 5 lít/phút thì mới sống được. Ngược lại, PQT thì máu càng ra, tim càng đập chậm làm cho máu luân lưu trong cơ thể giảm hẳn, chẳng những không đủ 5 lít/phút mà còn xuống thấp khoảng 3-2 lít/phút. Cơ thể chết. Xuất huyết là một sự kiện tiêu cực, tim đập chậm cũng là dấu chứng tiêu cực. Cũng như trường hợp Đói và Khát, kích thích ban đầu tăng, PQT tăng…
PQT không ngăn cản những hoạt động thái quá hoặc bất cập, ngược lại, thái quá thì làm thái quá thêm, bất cập thì làm bất cập thêm. Như vậy sự sống mất quân bình, Nội Môi Trường không còn tính ổn định nữa.
Tuyến giáp trạng[…]
Tuyến giáp trạng rất quan trọng trong biến dưỡng căn bản, nếu không có Thyroxine thì cơ thể không thể phát triển. Đặc biệt nếu không Thyroxine thì cơ thể không chịu được lạnh và bị phù thủng, huyết áp giảm, tinh thần chậm chạp, ngủ li bì.vv…
Tuyến giáp và tủy nang thượng thận kết hợp với nhau, một bên tiêt Thyroxine, một bên tiết Adrenalin để một bên điều hòa biến dưỡng cơ thể và một bên cần cho sự phấn đấu của đời sống sinh lý đối với ngoại mội trường Hai bên hỗ trợ nhau để tạo nên sức sống động của cơ thể.
Vì lẽ đó Tâm Hỏa (Quân Hỏa) và Thận Hỏa (Tướng Hỏa) là Tuyến Giáp Trạng và Tủy Nang Thượng Thận.Bệnh do tăng giảm Thyroxine:- Giảm Thyroxine: Đàn ông sẽ mất sinh dục. Đàn bà kinh nguyệt sẽ không đều, và không chịu được lạnh. Những nơi xa biển, thiếu chất Iodine, tuyến giáp trạng làm việc nhiều làm cho tuyến càng lớn tạo thành bướu cổ…
- Tăng Thyroxine: Có những bệnh như ung thư tuyến giáp trạng hoặc có bệnh làm Thyroxine tiết ra nhiều, con người gầy yếu, con mắt bị lồi.. (gọi là Grave disease).
Tuyến Tụy Tạng […]
Insulin và bệnh đái tháo đường (Diabete Mellitus): ĐTĐĐái đường vì Insulin có hai loại: Loại cấp tính và loại trì tính.
- Loại cấp tính: Người bệnh thường trẻ từ 40 tuổi trở xuống. Loại này do tế bào Beta (B) bị hư hại không còn sản xuất được Insulin nữa. Do đó đường không được đưa vào tế bào cho nên đường trong máu cao, bị thải qua nước tiểu. Nước tiểu có đường, gọi là bệnh đái đường. Đường bị đái ra hết không còn để tạo năng lượng, cơ thể phải dùng chất mỡ và chất thịt để tạo năng lượng. Khi dùng chất mỡ để tạo năng lượng thì Cholesterol được tạo thành làm cho mạch máu bị nghẽn dẫn tới cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đui mù, có khi phải cắt cả chân hoặc cả tay,vv…
Muốn chữa bệnh ĐTĐ cấp tính, trừ Insulin không có gì chữa được. Bệnh nhân phải dùng Insulin hàng ngày.
- Loại trì tính thường xảy ra cho người bệnh từ 40 tuổi trở lên. Nguyên nhân có thể vì tế bào Beta (B) tiết Insulin không đủ hoặc có Insulin nhưng Insulin yếu nhược không đủ hoạt tính để biến dưỡng chất đường. Nếu không trị liệu, hậu quả vẫn như loại cấp tính. Tuy nhiên, nếu trị liệu có thể dùng ít Insulin hơn loại cấp tính hoặc dùng loại thuốc tăng hoạt Insulin của bệnh nhân.


... Kim sinh Thủy không phải là vì Kim bị đốt nóng sẽ chảy ra thành nước, vì Kim lúc đó tuy ở dạng thể mềm lỏng, nhưng đỏ chói, nóng bỏng nên sao có thể gọi là “Thủy” được. Thật ra, nguyên lý Kim sinh Thủy của cổ nhân là vì lấy quẻ CÀN là biểu hiện của Trời, mà Trời sinh ra mưa để tưới nhuần vạn vật, nên Thủy được phát sinh từ Trời. Mà quẻ CÀN có hành Kim nên mới nói Kim sinh Thủy là vậy. Mặt khác, trong Hậu thiên Bát quái của Văn Vương, Thủy là nguồn gốc phát sinh của vạn vật. Nếu không có Thủy thì vạn vật không thể phát sinh trên trái đất. Cho nên khi lấy CÀN (KIM) sinh KHẢM (THỦY) cũng chính là triết lý của người xưa nhìn nhận nguồn gốc của sự sống trên trái đất là bắt nguồn từ Trời, là hồng ân của Thượng Đế. Do đó, trong các nguyên lý tương sinh của Ngũ hành, Kim sinh Thủy là 1 nguyên lý tâm linh, triết lý và vô hình, và cũng là nguyên lý tối cao của học thuyết Ngũ hành tương sinh, vì nó là sự tương tác giữa Trời và Đất để tạo nên vạn vật. Còn những nguyên lý tương sinh còn lại chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau trên trái đất để duy trì sự sống mà thôi, nên cũng dễ hiểu và dễ hình dung hơn.