Xin su huynh PHUOC gia?i thi'ch ti? mi? ve^` hồi hướng "Công đức"
Tai sao sau mo?i khi co^ng phu xong thi` ne^n ho^`i hu+o+'ng co^ng ddu+'c?
Trước khi vào vấn đề thì đây là một ví dụ về cách "thuyết pháp không khế hợp"
Trong Pháp Bảo Ðàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng có giảng giải về hai chữ Công đức:
"Khi Ðức Ðạt Ma Tổ Sư được rước vào Kim Lăng, vua Lương Võ Ðế hỏi rằng:
- Từ khi lên ngôi, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không xiết kể, thế có Công đức chăng?
Tổ Sư nói: - Các việc làm ấy thiệt không có Công đức.
Vua Lương Võ Ðế hỏi: - Bởi sao không có Công đức?
- Ấy chỉ là cái Tiểu quả của cõi Trời và cõi người mà thôi. Chính là cái nhân hữu lậu cũng như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
Vua Võ Ðế hỏi: - Thế nào mới thiệt là Công đức?
- Cái trí thiệt sạch toàn sáng, huyền vi; cái tánh thể tự nhiên, trống không vắng lặng. Ấy là Công đức. Công đức ở nơi bổn tánh mình chớ chẳng phải cầu nơi công nghiệp thế gian.
Tổ Sư lại nói:
- Thấy tánh là Công, giữ lòng bình đẳng là Ðức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy bổn tánh, động tịnh tự nhiên, diệu dụng chơn thật, ấy gọi là Công đức.
Bên trong giữ lòng khiêm hạ là Công, bên ngoài hành động theo lễ là Ðức.
Tánh mình lập ra muôn pháp (sự lý, muôn vật) là Công, tâm thể lìa niệm là Ðức.
Chẳng lìa tánh mình là Công, ứng dụng không nhiễm trần là Ðức.
Muốn tìm cái Công đức pháp thân (Dharma-Kaya) thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới thiệt có Công đức. Người tu Công đức thì lòng chẳng nên khinh dể người, mà phải thường cung kính khắp cả nhơn vật. Nếu lòng thường khinh dể người thì bổn ngã của ta chẳng dứt, tức là mình không có Công. Tánh mình giả dối không chơn thật tức là mình không có Ðức. Bởi bổn ngã của ta tự đại, nên thường khinh dể cả thảy nhơn vật.
Chư Thiện tri thức, niệm niệm thấy tánh không rời là Công, lòng giữ công bình chánh trực là Ðức.
Tự giồi tánh mình là Công, tự trau thân mình là Ðức.
Chư Thiện tri thức, Công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí (làm phước).
Bởi vậy, Phước đức với Công đức khác nhau. Vua Võ Ðế không biết chơn lý, chớ chẳng phải Tổ Sư của ta lầm."
Đọc thiệt là kỹ thì đây là học giả nói chớ chẳng phải là Tổ nói

!
Thứ nhất: Vua mà làm theo cách này là ... mất nước như chơi.
Thứ nhì: Tổ gì mà ... vô minh tệ vậy? Đây là một người gánh vác cả nước chớ đâu có phải là dân ở hang núi đâu mà phải nói lên cái chuyện Không Tánh vớ vẩn này? vì nói xong thì Vua có áp dụng được gì không? Vua mà áp dụng thì hậu quả cả nước sẽ ra sao?
Đây là nói cho sướng cái lỗ miệng chớ không phải nói từ cái "Chánh Trí".
Vã lại, không có chuyện ... rước tu sĩ vào cung điện để mà nghe pháp!
Vua có muốn nghe thì phải thân hành đi tìm tu sĩ để nghe (y như là thời của Đức Phật Thích Ca).
Tu sĩ thứ thiệt thì đâu có cần sự tài trợ hay bảo vệ của Vua?
Chết thì thôi chớ! Tu sĩ thứ thiệt đâu có ngán?
Thử hỏi khi vào cung điện thì Vua ngồi ở đâu để nghe pháp?
Vua ngồi ở trên Ngai là tu sĩ không có nói vì không có điều kiện: Nên nhớ là Vua (là ba của Đức Phật) còn phải xá đứa con mình nữa đó!
Vua phải bỏ Ngai và ngồi ở dưới để tỏ lòng tôn kính. Và sau khi được tu sĩ cho phép ngồi ngang hàng thì tu sĩ mới nói pháp cho nghe:
Vua cần cái gì? Vua cần Chính Trị, chớ đâu có cần ba cái "Tánh Không" vớ vẫn này? (nên nhớ đây là "Chính Trị" chớ không phải là "tà trị"):
Vào thời Đức Phật, vấn đề của Vua chúa không là gì cả và chỉ cần có 7 câu để vua về mà làm, 7 câu như sau:
http://www.zencomp.com/greatwisdom/uni/u-duongve-xuphat/xuphat11.htm[...] Trích đoạn:
Vesàli xưa là thủ đô của nước Cộng hoà Licchavi của giống người Vajji. Nước này do Visala, con của Vua Ikshvaku lập thành. Những nguyên tắc sinh hoạt theo tinh thần dân chủ của nước này được đức Phật đề cập và tán thán.
"Này Ananda, người có nghe rằng những người Vajji thường hội họp với số lượng đông đảo không?"
"Bạch Thế Tôn! Con có nghe!" ngài Ananda đáp.
"Tốt, Ananda, chừng nào người Vajjian thường hội họp với số lượng đông đảo, lúc ấy sự thịnh vượng của họ tăng thêm mà không suy giảm".
"Này Ananda, chừng nào người Vajji hội họp với nhau trong sự hòa hợp, chừng nào họ quyết định và làm việc với nhau trong sự hòa hợp, chừng nào họ giữ trọn luật lệ mà không có sự xáo trộn trật tự, chừng nào họ kính trọng và lễ bái những bậc trưởng thượng và vâng lời những bậc ấy; chừng nào phụ nữ và thiếu nữ của họ đi ra ngoài mà không bị sự hiếp bức, chừng nào họ tôn kính và lễ bái đền chùa của họ, chừng nào họ còn gìn giữ mà không khinh bỏ phong tục, chừng nào họ còn bảo vệ tôn kính và ủng hộ các bậc tu hành đạo đức, thì lúc ấy sự thịnh vượng của người Vajji tăng thêm mà không suy giảm".
Chính những lời dạy này đã làm cho vua Ajatasatru bỏ ý định chinh phục nước này vì sợ không thể thắng được một nước mà toàn dân sống tự do, đoàn kết dưới chế độ dân chủ. Chúng tôi nghĩ rằng dân tộc Việt Nam chúng ta nếu muốn thịnh vượng cũng không thể làm gì khác hơn là áp dụng những nguyên tắc dân chủ trên.
[...] Hết phần trích đoạn.
Hết.