Thưa thầy cùng một câu chú do Phật thuyết ra nhưng chúng ta dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, vậy mình nên trì theo phiên âm của nước mình hay trì theo đúng phạn âm, cái nào sẽ tốt cho việc hành trì hơn.
Hiện giờ con đang trì chú đại bi bằng phiên âm tiếng Việt. Không biết trì theo Phạn ngữ thì có tốt hơn không
Mong thầy giải thích giúp con. Con cám ơn thầy
Cách phát âm không cần thiết gì cho lắm. Vì tiếng nước nào đi nữa cũng bị sai lệch do cách phát âm của từng điạ phương. Như là tiếng Việt Nam với cách phát âm như giọng miền Nam, giọng Huế, Bình Định, giọng Quản, ...
Do vậy mà kỹ thuật hay là phương pháp niệm mới thành vấn đề:
PHƯƠNG PHÁP TRÌ CHÚ ĐẠI BI
Đệ có cuốn Đà La Ni xuất tượng của Nguyên Phong dịch, nguyên câu (trang 15) là:
Phát nguyện ấy rồi, chăm lòng xưng niệm danh hiệu của tôi và phải chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà Như Lai là đấng Bổn Sư của tôi, vậy sau mới tụng đủ năm biến, là đã trừ diệt tội nặng trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tửtrong bản thân.
Kinh nghiệm bản thân của nhóm lu bu thì không cần tới năm biến mà chỉ cần một biến thôi cũng đủ, nếu có một tâm lực mạnh. Cái chìa khóa của cách trì tụng không nằm ở con số năm mà lại nằm ở đoạn trên đó, mà đệ xin ghi lại một lần nữa cho rõ:
Phát nguyện ấy rồi,
chăm lòng xưng niệm danh hiệu của tôi và phải
chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà Như Lai là đấng Bổn Sư của tôi, vậy
sau mới tụng đủ năm biến.
Khi đọc tới đây, đệ hiểu rằng phải
đọc liên tục và không được dứt niệm. Như vậy, thì
dùng cái gì hay cách gì để cùng một lúc có thể đọc:1. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (y như kinh đã ghi câu: "chăm lòng xưng niệm danh hiệu của tôi")
2. Nam Mô A Di Đà Phật (để thoả điều kiện: "và phảichuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà Như Lai là đấngBổn Sư của tôi").
3. Và trì tụng chú Đại Bi, như kinh đã chỉ cách: (vậy sau mới tụng đủ năm biến).
Đệ tìm ra có hết thảy... ba cách để có thể trì tụng:
Cách (1):
Dùng trình độ chánh định của Tứ Thiền Hữu Sắc để quán cho ra cả ba vị: Phật A Di Đà ở ngay giữa, bên phải của Ngài là Bồ Tát Quan Thế Âm, bên Trái của Ngài là Đại Thế Chí Bồ Tát. Tất cả đều đứng trên Hoa sen năm cánh. Sau đó là tác ý đọc chú Đại Bi.
Cách (2):
Cũng dùng trình độ chánh định trên mà quán cho ra chữ Hrih (vốn là tâm chú của Quan Thế Âm Bồ Tát và cũng là tâm chú của Ngài A Di Đà Phật). Chữ có màu đỏ trong cái mặt trời màu vàng sáng chói. Và sau cùng là tác ý đọc Chú Đại Bi.
Cách (3):
Nhắm mắt nhìn chăm chú vào một điểm ngay đằng trước mặt và trì chú. Cách này chỉ dùng niềm tin với một tâm lực yếu hơn hai cách trên.
Biểu hiện khi trừ diệt tội nặng:
Ở hai cách đầu (1) và (2) thì linh ảnh biến mất và sẽ xuất hiện một màn ảnh rất là lớn (có thể nói là cả cái tầm nhìn 360 độ). Ở ngay giữa là một hình ảnh khá lớn, hình ảnh này mang ý nghĩa tổng quát của những khuynh hướng gây tội của mình, và chung quanh cái hình chính này là những hình nhỏ như ngón tay cái, mỗi hình lại diễn tả chi tiết nhũng lần phạm tội của mình, nếu mình tập trung vào cái hình đó. Kế đó, một giọng nói xuất phát từ một điểm cao hơn tầm nhìn khoảng 45 độ và ngay đằng trước mặt. Giọng nói này vang khắp cả bầu trời làm chấn động cả không gian:
- Ông muốn tôi xóa hết hay là để đó làm kỷ niệm?
Hễ mình tác ý xoá thì màn ảnh liền trắng (Cô Trang), còn hễ mình tác ý là để làm kỷ niệm (Đệ và Cô Vân) thì màn ảnh còn y nguyên. Nhưng khi nhìn vào những hình ảnh nhỏ đó thì mình chỉ thấy đó là chuyện của ai đó đã làm chớ không phải là mình đã làm, nhưng mình hiểu rằng là chính mình đã làm. Và giọng nói đó lại một lần nữa vang lên với bài kệ của kinh nhật tụng quen thuộc.
Ở cách 3 thì không được rõ ràng như vậy mà chỉ hiểu mang máng rằng mình cảm thấy nhẹ nhàng trong tâm và những giấc mơ với những nhân vật trong gia đình đã quá cố xuất hiện cám ơn mình đã trì tụng và họ đã được nhẹ tội. Sau khi đã trì tụng một thời gian khá lâu.