Ngay sau khi hạ sanh Chúa Giêsu và nghe được lời tiên đoán của Simion, Mary lập tức khăn gói lên đường thực hành hạnh nguyện làm Mẹ của Xã Hội. Bà được những người qua đường thông báo rằng (họ chính là ba vua mà trong Thánh Kinh thường được nhắc đến, nhưng sự thật thì họ chỉ là ba thương gia lớn đi chung với nhau) có rất nhiều gia đình đang chạy trốn khỏi sự truy sát của vua Herod. Vua ra lệnh cho quân lính giết hết những bé trai trong nước Do Thái từ 2 tuổi trở xuống, niềm hân hoan của Đức Mẹ nhanh chóng trở thành nỗi lo sợ và đau buồn, đây là sự thử thách đầu tiên của Đức Mẹ trên con đường đi đến Chân Lý. Vua Herod đã tự mình tiên đoán qua giấc mơ; ông thấy một đứa bé trai sẽ sớm sinh ra và sẽ thống trị cả nước Do Thái. Vua Herod đã không biết rằng sự lo sợ mất đi quyền lực và ích kỷ đã dễ dàng bị lợi dụng bởi những cảnh giới chống đối với Chân Lý, qua những suy nghĩ và hành động của ông. Vua Herod cũng ra lệnh giết chết đứa con trai của ông trước khi Chúa Jejus sinh ra, tất cả đều do sự đam mê quyền lực.
Trong nhiều bức tranh và phúc âm, hình ảnh Đức Mẹ được nhắc đến rằng cuộc hành trình của bà đã được dẫn dắt bởi chính Thượng Đế và Thiên Thần, các ngài đã bẻ công cây cọ che nắng cho Mary, cung cấp thức ăn và nước uống cùng với những thứ cần thiết để giúp cho bà và Chúa Giêsu an toàn và dễ dàng hơn. Nhưng thật ra, cuộc chạy loạn của bà là cả một sự gian nan và nhiều khó khăn. Bà thường hay lo lắng cùng với nỗi sợ hãi và cho rằng đây chỉ là sự mưu hại đầu tiên để sát hại con trai duy nhất của Bà. Cuộc hành trình của bà phải đi qua một sa mạc; nóng kinh khủng, thiếu nước và thức ăn, và rất nhiều thổ phỉ. Cuộc hành trình của bà đã mất gần 14 ngày đường. (Do sự thiếu chính xác trong khi viết lại và khi vẽ ra những bức tranh, mọi người đều nghĩ rằng chính Niềm Tin sẽ giải quyết hết mọi vấn đề khó khăn trong cuộc sống, nhưng Niềm Tin chỉ giúp cho chúng ta vững vàng khi tự giải quyết vấn đề.
Sau khi đã an toàn đến được Ai Cập, bà nhận ra rằng xã hội nơi đây đầy dẫy những tượng thờ - từ những con người với thân thể của quái thú hoặc đầu của quái thú với thân thể của một con người; dân chúng nơi đây tôn thờ họ với những lý do và suy nghĩ sai lầm - với mục đính đạt được quyền lực, của cải, chữa bịnh, cầu khẩn các cách để thay đổi và giúp cho cuộc sống của họ dễ dàng hơn. Họ không nhận ra rằng những thứ họ đạt được do cầu khẩn này nọ sẽ trả giá bằng chính linh hồn của họ, làm cho nghiệp của họ càng sâu dầy hơn trên trái đất này, không phải trên Thiên Đàng. Thấy được những tín ngưỡng và những linh hồn lạc lối đó, đã nhắc lại cho Mary một lần nữa về nhiệm vụ của bà là hướng dẫn, giúp đỡ và động viên Chúa Giêsu tìm đến mục đích của chính Ngài. Sau khi trải qua cuộc hành trình đầy khó khăn, bà biêt rằng Niềm Tin của bà đã thúc đẩy bà tự vượt qua chính khó khăn của mình, không phải là làm mất đi hoặc làm cho vấn đề đó trở nên dễ dàng hơn cho bà. Niềm tin đã giúp bà tự vượt qua sự tiêu cực của thế giới này, để từ đó có thể tiến tới một nơi thật sự thuộc về chính Bà ( Thiên Đàng), và dẫn dắt người khác đi cùng đi trên con đường tiến đến Giải Thoát.
Trong thời gian này, Mary có thể lựa chọn ở lại Ai Cập, nơi mà đứa con trai của bà có thể sống an toàn. Tuy nhiên, với sự quyết tâm trong niềm tin và trong tình thương của bà đối với mọi người, đã nhắc lại mục đính của bà, bà tiếp tục đi từ nơi này tới nơi khác sau khi sự nguy hiểm của con bà đã qua, để tìm đến một nơi đầy dẫy sự thống khổ của những linh hồn lạc lối và sống chung với họ mà không có sự phần biệt nào, nhưng chỉ bằng tình yêu. Từ cách sống của chính Mẹ mình, Chúa Giêsu đã sớm học được và bắt đầu sứ mệnh ( Nguyện) của chính mình.
Từ đây, chứng ta có được Tam Pháp Ấn -
Sự Tỉnh Giác, sự Hỷ Lạc, sự quên mình
Sự Tỉnh Giác. Hiểu được rằng từ bên trong, chúng ta thật sự là ai, chúng ta giải quyết một vấn đề như thế nào, và chúng ta có chấp nhận đó là nghiệp quả của chính mình không? Hiểu được rằng cuộc sống của chúng ta phải là như vậy ( bịnh, v.v.) và dùng chính niềm tin của mình để vượt qua, tìm cách chuyển hướng ác nghiệp thành thiện nghiệp. Chúng ta không nên chối bỏ nghiệp quả do chính mình đã tạo ra trong nhiều kiếp về trước, nhưng chấp nhận nó và tìm cách không lập lại sai lầm đó nữa, bởi ác nghiệp sẽ theo ta mãi từ đời này sang đời khác cho đến khi chúng ta giải quyết được nó đúng cách. Đức Mẹ đã hiểu và đã chấp nhận rằng cuộc sống của bà không chỉ bao trùm trong nỗi buồn mà còn có nỗi khổ đau; nhưng, từ sự khổ đau của chính bà, bà đã chọn cách dùng chính nó để tiến đến Giải Thoát không chỉ cho riêng bà mà còn cho mọi người.
Chính sự Tỉnh Giác đó sẽ mang lại cho ta sự Hỷ Lạc. Khả năng tự thấy bản thân được an lạc qua quyết định của chính mình mà không để tâm đến những ý kiến và những lời khen chê của người khắc hoặc những toan tính để có được vật chất từ thế giới này. Chúng ta chỉ đơn thuần làm điều đúng vì nó mang lại cảm giác tự hoàn thiện. Ở thời điểm này chúng ta không còn dựa trên cách sống của người đời, không còn cảm thấy hãnh diện khi có được vật chất, và địa vị trong xã hội này (số đông) bởi vì chúng rồi sẽ mất đi và vì bản chất của chúng là vô thường. Ta tìm cách hoàn thiện chính linh hồn này, không phải là thân xác này, thứ mà chính linh hồn không thể nào ngự mãi được. Mẹ Mary luôn tìm mọi cách để hướng dẫn người khác và giúp đỡ Chúa Giêsu trên con đường tâm linh của Ngài. Chúng ta rất ít đọc được về những việc làm của Mẹ Mary trong những quyển Thánh Kinh, trong thực tế, những việc làm của bà ít khi được nhắc đến trong các sách Thiên Chúa giáo và ở những tranh vẽ, sau khi Chúa Giêsu đã trưởng thành. Ngay cả những khó khăn khi nuôi dạy Chúa Giêsu trong thời gian Ngài còn là trẻ thơ cũng bị che đậy trong kinh thánh bởi Joseph. Bà đã làm việc âm thầm, giúp đỡ linh hồn của nhiều người mà họ cũng không hề hay biết. Bà vượt qua khó khăn một cách lặng lẽ, sợ hãi trong lăng lẽ, và luôn giữ vững tư tưởng của bà trên con đường tâm linh mà không ra bất kì sự chú ý nào, tất cả cũng bởi vì lúc nào bà cũng hoan hỷ khi hoàn thành một công việc tâm linh, cho dù thể xác lúc nào cũng bị đau đớn.
Và thế, chúng ta có được sự quên mình. Những hành động của mình từ sự Tỉnh Giác và Hỷ Lạc đã đưa chúng ta đến một trình độ cao hơn là sự quên mình; nó trở thành một thói quen giúp chúng ta tự tìm đến thiền định và linh hồn của ta luôn luôn học hỏi. Thân xác này – hay tất cả mọi thứ trên đời này – thuộc về thế giới này. Nó là một nơi giữ linh hồn của ta lại cho đến khi ta tìm được mục đích thật sự. Khi mà chúng ta đã có khả năng nhìn xa hơn cái thân xác này, xa hơn cái thế giới này, chúng ta sẽ nhận ra rằng đó mới chính thật là mình – linh hồn – có thể hoàn thành mọi điều và tất cả các thứ. Chúng ta có thể ở khắp mọi nơi và cùng một lúc lại không ở đâu hết, và chúng ta hiểu rằng cuộc sống này là vô thường, cho nên mọi thứ xảy ra bởi vì nó cần phải xảy ra – nó phải là như vậy. Khi mà chúng ta đạt được trạng thái cao nhất của thiền định, chúng ta bắt đàu có cảm giác như là linh hồn này không còn gì đáng để mà quay trở về lại, như nó đã tìm lại được chính nó, với nhận thức được sự tồn tại của vạn vật và đồng thời cũng không có gì tồn tại cả. Mẹ Maria có khả năng vượt qua mọi khổ đau của chính bà là một ví dụ điển hình; nó rất là đau đớn, vâng, nhưng sự quên mình của bà đã giúp bà giữ vững quyết tâm để tiếp tục con đường tâm linh của bà.
Sự Tỉnh Giác, sự Hỷ Lạc, và sự Quên Mình là một phần trên con đường đi đến Chân Lý. Lập lại Ba Pháp Ấn này – Tỉnh Giác, Hỷ Lạc, và Quên Mình – như là phần chuẩn bị trước khi Sám Hối sẽ giúp chúng ta lắng dịu mọi khát vọng của mình và bắt đầu tập trung vào tư tưởng. Linh hồn ta bắt đầu cảm thấy hối hận về những nghiệp quả của chính mình và bây giờ đã hiểu được mục đích để hoàn thiện tâm linh mình qua ba Pháp Ấn trên.