Hoa Sen Trên Đá

An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt

05-09-2025, 04:24 PM
Chào bạn! Bạn có thể Đăng Ký

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Nhập Cốc: người đang nhập cốc! Trong vòng 24 giờ có: 92 lượt nhập cốc.
Nhấp vào đây để Nhập Cốc.
   Đạo tràng   Tìm kiếm Đăng nhập Đăng ký  
Cỡ chữ: 19
Trang: [1] 2   Xuống
 
Chủ đề: Y học thường thức.  (Đọc 10945 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
vào lúc: 09-03-2019, 07:16 PM

Cho BS xin phép tạo riêng chủ đề này với mong muốn cùng Bà con chia sẻ kinh nghiệm(y học, kinh nghiệm dân gian) để cùng nhau rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe ạ..
===
Mở đầu là 1 kinh nghiệm tập bất cứ môn thể dục thể thao nào theo sách vở... Nếu tập dưới 45 phút năng lượng tiêu hao (đường)được lấy từ bắp thịt nơi vận động sau đó là ở gan.. Và nếu muốn tập luyện giảm cân thì nên tập luyện thời gian từ 45 phút trở lên...
Cái này BS chưa kiểm chứng đối với tập VTC và ngồi thiền nha Bà con..hihi
Logged
TriHy
Thành viên

Giới tính:
Bài viết: 46


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TriHy
Trả lời #1 vào lúc: 09-03-2019, 10:52 PM

Trí hỷ ủng hộ BS.
Tuy nhiên giữa phương pháp tập để tiêu hao năng lượng và tập để đảo thải tạp chất cùng năng lượng thừa cũ, nạp năng lượng mới và tinh chất, để dự trữ nhiều tại các tế bào, cho phép sử dụng nhanh mà không qua vận chuyển, đồng thời giảm năng lượng dự trữ trong máu và các tạng tỳ và gan. Việc tinh luyện năng lượng như thế sẽ cân đối việc nạp và tích trữ, dẫn đế việc ăn ít mà hấp thu nhiều, nên giảm cân mà không mất quá nhiều calori.
BS nghĩ sao?
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #2 vào lúc: 10-03-2019, 12:50 AM

Trí hỷ ủng hộ BS.
Tuy nhiên giữa phương pháp tập để tiêu hao năng lượng và tập để đảo thải tạp chất cùng năng lượng thừa cũ, nạp năng lượng mới và tinh chất, để dự trữ nhiều tại các tế bào, cho phép sử dụng nhanh mà không qua vận chuyển, đồng thời giảm năng lượng dự trữ trong máu và các tạng tỳ và gan. Việc tinh luyện năng lượng như thế sẽ cân đối việc nạp và tích trữ, dẫn đế việc ăn ít mà hấp thu nhiều, nên giảm cân mà không mất quá nhiều calori.
BS nghĩ sao?
Chú TriHy đã đưa ra một câu hỏi vượt quá sự hiểu biết của BS..hihi
Theo BS, để đạt được mức độ như chú nói phải tầm cỡ nhập định cao cấp lắm.. chứ dù là luyện khí công hay yoga sơ sơ cũng chưa được gì..
Đó là chưa nói khi mấy cái luân xa nó mở là mình dễ mất kiểm soát như chơi..
Vậy chú TriHy có phương pháp hay tài liệu nào củng cố thêm chủ đề này ah..cảm ơn chú..hihi
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #3 vào lúc: 10-03-2019, 01:09 AM

Sử dùng bột nêm (bột ngọt/mì chính) cho bữa ăn... nên hay không nên.. vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngõ.
http://m.soha.vn/su-that-ve-mi-chinh-gay-ton-hai-than-kinh-mat-tri-nho-nhieu-bai-bao-tuong-nguoi-la-chuot-20171004070028542.htm
Về kinh nghiệm bs thì.. đi ăn ở ngoài mà gặp quán nào 1 lần ngửi được vị bọt ngọt(triệu chứng nhứt đầu, tê cả vai gáy sau đó 1 vài phút).. là sẽ tẩy chay chỗ đó..
Nhưng ngặt cái là, ở nhà nấu món gì cũng phải cho vào tí tí bọt ngọt.. ăn mới nghe cảm giác ngon miệng... thật là khổ cái "thiệt thức" (cái lưỡi)..hihi
Logged
TriHy
Thành viên

Giới tính:
Bài viết: 46


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TriHy
Trả lời #4 vào lúc: 10-03-2019, 09:04 AM

BS ơi!
Trí Hỷ là tên được thiền sư Kim Triệu đặt cho nhân dịp gặp Ngài tại chùa Phước Sơn ở Đồng nai khoảng năm 2010, lúc chưa biết HSTĐ (năm 2012). Tiếng Pali là Pandita. Chứ không phải là chú Hỷ quen với Thầy ạ!

Còn phương pháp tập để nạp chất bổ mà Trí Hỷ quen gọi chung là năng lượng (vì giúp cho sự hoạt động), vào tế bào, thì để giải thích một cách khoa học thì phải nói dài dòng lắm. Còn nói theo kiểu tập và tự cảm nhận thì có thể giải thích như vầy:
Hấp thu lần 1: thức ăn được hấp thu tại ruột non thành những chất đơn lẻ, vào máu rồi chuyển vào tỳ (tụy tạng và lá lách) và gan ở dạng dưỡng trấp và những chất liên quan đến máu.
Hấp thu lần 2: khi tế bào hoạt động và thải các chất bã ra thì máu vận chuyển dưỡng trấp mà đã được công thức lại theo nhu cầu, vào tế bào để thay thế chất cũ và để dự trữ hay thực hiện những hoạt động mới.
Tuy nhiên, nếu có cách nào mà tế bào thải bỏ RA NGOÀI CƠ THỂ những chất bã cùng những dưỡng trấp dư thừa mà máu cất giữ trong tế bào. Sau đó nạp lại những chất tươi mới hơn, thì tế bào sẽ ưu tiên xài "đồ mới" mà bỏ một số "đồ cũ" không cần dùng đi.
Quá trình này sẽ thải ra một lượng lớn mồ hôi mà không phải tiêu hao năng lượng (calori)  Grin Grin Grin
Sau một thời gian, không còn túa mồ hôi nữa (chỉ rịn mồ hôi thôi) là hoàn thành  Grin Grin Grin

Để thực hiện bài tập này, trước tiên nên tham khảo một chút lý luận về âm dương - khí huyết:
- Theo quan niệm Á đông, huyết thuộc âm, khí thuộc dương.
- Theo đó thì huyết chủ về nuôi dưỡng, khí chủ về hoạt động. Nói mở rông:
-- Huyết chủ về lực (sức mạnh), khí chủ về linh hoạt (nhanh nhẹn). Dẫn chứng: trẻ em linh hoạt nhưng yếu, trong khi người lớn kém linh hoạt hơn trẻ em nhưng mạnh hơn.
-- Huyết vận hành nhiều về đêm, khí hành nhiều về ngày. Dẫn chứng: trẻ cần ngủ nhiều để lớn, người lớn cần ngủ ít hơn trẻ và hoạt động nhiều để giữ sức khỏe.
- Theo thứ tự thì huyết làm căn bản làm chỗ dựa cho khí; khí để chuyển vận và củng cố (hiểu theo nghĩa tinh tuyện) cho huyết.

Bài tập gồm 2 bài cơ bản:
- Bài tập cho huyết vào ban đêm trước khi ngủ 1 tiếng, giúp huyết "thải cũ, nạp mới", và ngủ rất ngon. Grin
- Bài tập cho khí vào ban ngày để giúp củng cố huyết và hoạt khí, làm cơ thể nhẹ nhàng. Grin

Đương nhiên là còn những bài nâng cao nữa. Đặc biệt là bài Vạn Thắng Công vận chuyển khí huyết rất nhiều. Nhưng bài này (VTC) cần phải có bài thông khí ở huyệt Ngọc đường giữa ngực, và làm sạch các ống máu cùng hệ thống mạch máu trên đầu thì tập mới không gặp trở ngại. Đó cũng chính là 2 bài cơ bản:

1. Bài tập cho huyết: áp dụng từ bài "Lễ Phật trì danh" của môn Khí công y đạo mà Thầy Đỗ Đức Ngọc làm Chưởng môn.
Link: https://www.youtube.com/watch?v=uS12LGxoUUk

Phải hiểu mục đích bài tập này là:
- Huyết chuyển nhiều, khí chuyển ít. Ngắn gọn là huyết nhiều, khí ít.
- Ép máu từ chân lên hông, từ hông lên đầu, rồi từ đầu xuống hông, từ hông xuống chân.
- Khi cơ thể chuyển động thì miệng niệm câu A Di Đà Phật theo nguyên tắc "Khí Huyết đồng hành". Khi ngừng thì hít vào bằng mũi, lấy hơi cho câu kế.
- Âm niệm nên trầm (không quá trầm) và đầy hơi bụng (giống ca sĩ hát Opera) tạo lực rung động nơi ngực, công hưởng với sự chuyển động.
- Và tuyệt vời là đẩy câu niệm trong tâm ra trước trán sẽ thấy trán máy động nhiều.
- Hạn chế tối đa việc dùng lực Ngồi xuống, Đứng lên, Ép bụng, mà phải thật thả lỏng để khí huyết lưu chuyển được tối đa mà lại lâu mệt.

Về động tác thì giống nhau, nhưng theo nguyên tắc trên sẽ có chút điều chỉnh:
- Đông tác úp không cần ngửa tay - nắm tay - úp tay - xõa tay; mà chỉ cần úp tay đẩy ra rồi rút về.
- Động tác đứng lên cần đưa hông về phí sau nhiều để hạn chế lực
- Thời gian tập chỉ nên từ 15 phút (tương đương 54 lạy) đến 30 phút (tương đương 108 lạy), để còn chừa sức cho cơ thể hoạt động chuyển vận trong giấc ngủ.
- Chuẩn bị một cái khăn để lau nhẹ mồ hôi vì nó túa ra rất nhiều.
- Tập xong nên lau kỹ mồ hôi và thay áo. Đặc biệt Không được tắm hay lau ướt. Nếu kỹ thì nên tắm buổi chiều, để tối tập cho đỡ dơ.
- Nếu siêng và còn khỏe (sung) thì tập thêm buổi sáng sớm lúc vừa dây và vệ sinh xong.

2. Bài tập cho khí: áp dụng từ bài "Dịch cân kinh 2 nhịp" cũng của môn KCYD
Link: https://www.youtube.com/watch?v=bN31cpAoWV0

Mục đích bài tập này là:
- Khí nhiều, huyết ít
- Dùng lực ly tâm để đẩy huyết, hơi thở để chuyển khí.
- Giữ cong lưỡi chạm huyệt Âm úy ngay vòm họng nơi cao nhất, mà Thầy đã tìm ra.
- Không dẫn khí: thực hiện câu của người xưa, được Thầy Tibu dạy lại
      Dùng niệm mà chuyển là tà
      Không niệm mà chuyển mới là chánh tông
- Như vậy hơi thở không theo động tác mà theo khả năng của cơ thể, và theo nguyên tắc của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện Êm - Sâu - Lâu - Đều
- Động tác là để dẫn khí đi khắp cơ thể, hơi thở để nạp và xả nguyên liệu là khí. Việc khí được sử dụng như thế nào là do cơ thể, không do ý.
- Vì nguyên tắc huyết ít, khí nhiều nên bài tập chia làm 3 giai đoạn:
2.1. Giai đoạn dùng lực ly tâm:
-- Tay từ vị trí ngang vai (tay lên không quá vai) thả rớt tự nhiên và người khum theo, đầu cúi nhẹ, để 2 tay được thảy ra phía sau nhiều nhất mà không dùng lực.
-- Dùng lực hông (theo nguyên tắc của môn võ Aikido) hất tay lên, và đầu cũng được đi theo để lực ly tâm tác dụng lên tới đầu mà không dùng lực của cổ.
-- Khi tay lên thì hơi ưỡn người để hãm đà lên của tay chỉ cho ngang vai, đồng thời đóng Hạ kiều nơi Hậu môn, ép khí thận chạy lên. Việc này giúp đóng vòng mạch Nhâm - Đốc cho khí phát động được nhiều và trọn vẹn.
-- Giai đoạn này hơi thở ngắn hơn hơi thở giai đoạn 2 một chút vì phải vận chút lực ly tâm.
Lưu ý: giai đoạn này tập nhiều sẽ khóa khớp gối làm tắc nghẽn mạch máu lưu thông nơi khớp gối. Nên từ từ tăng dần số lần tập để cơ thể điều chỉnh, sẽ không còn bị khó chịu. Nếu muốn thì có thể đứng lên ngồi xuống để thông, nhưng sẽ không hay bằng cách cơ thể tự thông khi tập ở giai đoạn 2 và 3.
2.2. Giai đoạn dùng hơi thở:
-- Giảm lực ly tâm.
-- Tập trung hơi thở êm sâu lâu đều.
-- Cố gắng điều chỉnh động tác và hơi thở giai đoạn này càng nhẹ nhàng càng tốt. Vì đây là bài luyện hơi thở rất hay mà trước giờ chưa tìm ra ai "chơi" kiểu này! Grin Grin Grin Thiệt là bá cháy luôn đó!!! Grin Grin Grin
-- Luyện đoạn này cho đến khi tập thật tự nhiên, không gắng công chút nào là OK.
2.3. Giai đoạn Tập Trung Tư Tưởng Đằng Trước Mặt (hi hi hi vào bài của Thầy rồi đó):
-- Thả lỏng hơi thở từ từ. Cố gắng tập trung để cảm nhận hơi thở vào ra.
-- Hơi thở lúc này rất êm. Nếu nó vẫn êm sâu lâu đều như trước đó thì chương trình mình cài cho cơ thể thực hiện quá hoàn hảo.
-- Còn từ khúc này mà vào đề mục thì ... Trí Hỷ vẫn chưa vào được, còn đang gắng tập. Mong có bà con nào vào được thì share cho Trí Hỷ và mọi người được hay!!! Grin Grin Grin
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #5 vào lúc: 14-03-2019, 03:05 AM

Chào chú Trí Hỷ... chia sẻ của chú thật hữu ích...
Cả 2 động tác mà chú nói thật sự BS đã đôi lần đọc qua sách vở hoặc cũng có người chỉ qua cho BS.. chừng 5 hay 10 năm về trước là có...
Nhưng thật trùng hợp khi vừa rồi về quê dịp tết, tình cờ Ông lão chống đò ngày xưa đi ngang qua nhà BS, giờ đây tuổi của ông chắc cỡ 80 hay 90 gì đó... Ngày đó trong xóm người ta đồn Ông ăn chay, niệm Phật, rồi có dịp cũng nghe ổng chỉ loáng thoáng cho bà con về phương pháp dịch cân kinh 2 nhịp... Tuổi xế chiều râu tóc bạc phơ..bước đi trong gió.. BS thầm nghĩ giờ ông khác gì 1 ông tiên hay Bụt.. chỉ chờ ngày về Tây phương...
Còn khung cảnh vạn vật xung quanh thì vẫn vô thường như thường lệ... mặc cho kiếp sống còn nghèo khổ hay đã trải qua nhiều thăng trầm theo năm tháng...hihi
« Sửa lần cuối: 14-03-2019, 12:07 PM gửi bởi bongsen »
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #6 vào lúc: 14-03-2019, 12:17 PM

Trí hỷ ủng hộ BS.
Tuy nhiên giữa phương pháp tập để tiêu hao năng lượng và tập để đảo thải tạp chất cùng năng lượng thừa cũ, nạp năng lượng mới và tinh chất, để dự trữ nhiều tại các tế bào, cho phép sử dụng nhanh mà không qua vận chuyển, đồng thời giảm năng lượng dự trữ trong máu và các tạng tỳ và gan. Việc tinh luyện năng lượng như thế sẽ cân đối việc nạp và tích trữ, dẫn đế việc ăn ít mà hấp thu nhiều, nên giảm cân mà không mất quá nhiều calori.
BS nghĩ sao?
Bỗng nhiên BS nhớ lại 1 kinh nghiệm (kinh nghiệm này có thể chỉ đúng với vài bà con còn trẻ, khỏe)..
Rằng mỗi buổi sáng trước khi thức dậy, trong người nó uể oải muốn ngủ nướng...hihi
Và buổi tối trước khi đi ngủ, trong người nó rạo rực với thói quen cũ....
Không biết đó có phải là cái năng lượng dư thừa khiến mình ( còn sơ tâm) không kiểm soát được..
P/s: Thầy có từng nói, kudalini ( hỏa xà) mà nó đã khai thông mà mình không kiẻm soát được thì nguy lắm thay..Huh
Chào bà con..
Logged
trigia
Thành viên

Giới tính:
Bài viết: 385


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: trigia
Trả lời #7 vào lúc: 15-03-2019, 04:15 PM

Phất thủ Dịch Cân Kinh thì Tg xin có ý kiến.
Trong 1 lần hội họp với HL, Tg có tập DCK cho HL xem.
HL: anh bấm 10 đầu ngón chân xuống.
Tg làm theo.
HL: Được rồi đó. Khí nó chạy rồi đó.
Tg: Nếu cho điểm trên 10 và so sánh với Vạn Thắng Công thì Phất Thủ DCK được bao nhiêu vậy anh ?
HL: 2/10

Thời gian sau này vì có vấn đề với cột sống nên thay vì 45 phút, Tg chỉ tập VTC thế thứ 4 trong 15 phút thôi.
Lý do là phải gập xương sống liên tục. Vì muốn tập thêm nên Tg có chế chiêu VTC một chút cho phù hợp.
HL có xem qua chế chiêu và xác định là khí vẫn chạy.
Logged
trigia
Thành viên

Giới tính:
Bài viết: 385


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: trigia
Trả lời #8 vào lúc: 15-03-2019, 04:33 PM

Lần đầu tiên khi gặp HL, Tg có kể lại cách niệm Phật liên tu bất tận của Tg.
Và cách Tg lạy Phật đứng lên ngồi xuống 108 lần giống như ông Đổ Đức Ngọc.

HL cười cười và nói: Làm như vầy nè … và chỉ cách Niệm Phật Quán Chấm Đỏ.
Đó là niệm Phật còn lạy Phật thì quán ông Phật cho ra và chỉ lạy Một Phát Một.

Nhiều anh em sau này khai triển tập Vạn Thắng Công 10, 15 phút trước khi vào công phu.
Tập thể dục nhưng chính yếu là để hâm nóng việc tập trung tư tưởng.
Logged
TriHy
Thành viên

Giới tính:
Bài viết: 46


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TriHy
Trả lời #9 vào lúc: 15-03-2019, 07:54 PM

Phất thủ Dịch Cân Kinh thì Tg xin có ý kiến.
Trong 1 lần hội họp với HL, Tg có tập DCK cho HL xem.
HL: anh bấm 10 đầu ngón chân xuống.
Tg làm theo.
HL: Được rồi đó. Khí nó chạy rồi đó.
Tg: Nếu cho điểm trên 10 và so sánh với Vạn Thắng Công thì Phất Thủ DCK được bao nhiêu vậy anh ?
HL: 2/10

Thời gian sau này vì có vấn đề với cột sống nên thay vì 45 phút, Tg chỉ tập VTC thế thứ 4 trong 15 phút thôi.
Lý do là phải gập xương sống liên tục. Vì muốn tập thêm nên Tg có chế chiêu VTC một chút cho phù hợp.
HL có xem qua chế chiêu và xác định là khí vẫn chạy.

Trí Hỷ cũng đã tập VTC liên tục cỡ 3 tháng thì bị nghẹn khí ở huyệt Ngọc Đường. Đeo vỏ xà cừ cũng không thông.
TH nhờ một người có kinh nghiệm đã thông huyệt Trung phủ phì đỡ nghẹt rất nhiều.
Thầy có chỉ là ngưng một thời gian rồi tập lại.
TH tập DCK kết hợp VTC thì ổn. Chỉ người khác tập như vậy cũng ổn.
Logged
nhà binh
Thành viên


Bài viết: 136


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: nhà binh
Trả lời #10 vào lúc: 15-03-2019, 11:15 PM

Phất thủ Dịch Cân Kinh thì Tg xin có ý kiến.
Trong 1 lần hội họp với HL, Tg có tập DCK cho HL xem.
HL: anh bấm 10 đầu ngón chân xuống.
Tg làm theo.
HL: Được rồi đó. Khí nó chạy rồi đó.
Tg: Nếu cho điểm trên 10 và so sánh với Vạn Thắng Công thì Phất Thủ DCK được bao nhiêu vậy anh ?
HL: 2/10

Thời gian sau này vì có vấn đề với cột sống nên thay vì 45 phút, Tg chỉ tập VTC thế thứ 4 trong 15 phút thôi.
Lý do là phải gập xương sống liên tục. Vì muốn tập thêm nên Tg có chế chiêu VTC một chút cho phù hợp.
HL có xem qua chế chiêu và xác định là khí vẫn chạy.

Trí Hỷ cũng đã tập VTC liên tục cỡ 3 tháng thì bị nghẹn khí ở huyệt Ngọc Đường. Đeo vỏ xà cừ cũng không thông.
TH nhờ một người có kinh nghiệm đã thông huyệt Trung phủ phì đỡ nghẹt rất nhiều.
Thầy có chỉ là ngưng một thời gian rồi tập lại.
TH tập DCK kết hợp VTC thì ổn. Chỉ người khác tập như vậy cũng ổn.

Bờm đã tập VTC trên 10 năm, không bị một tác dụng phụ nào. Mà trái lại Bờm vẫn sinh hoạt bình thường, sức khỏe tốt hơn.
Do đó, bất cứ là tập cái gì đi nữa, Thầy luôn nhắc đi nhắc lại câu: "nên tập với 70% sức của mình thôi", đồng thời "đọc cho thật kỹ, rồi suy nghĩ cho thật là kỹ, sau đó nếu có thắc mắc thì hỏi lại cho thật kỹ, rồi làm cho thật thật là kỹ".
VTC là một bài thể dục chỉ một thế mà có thể hoạt động hết tất cả các khớp xương, do đó nó có tác dụng rất mạnh trong việc lưu thông khí huyết. Do đó đây là một liều thuốc quý, cần uống đúng liều đúng lượng.

NB xin thêm một chi tiếc nhỏ bổ xung thêm bài viết của chú Trigia nữa là: nếu các bạn tập VTC trước công phu thì các bạn hãy ngồi xuống nghĩ tầm 15-20 phút cho người lắng xuống trước khi vô công phu, sau đó vô công phu thì nó sẽ hợp lý hơn. Vì sau khi tập VTC thì người mình đang động, mà công phu cần phải tĩnh, do đó nghĩ mệt sau VTC giúp người mình lắng xuống, nhưng khí lực vẫn đang lưu thông tốt, vậy công phu sẽ tốt hơn. Cái này NB được Thầy nói cho lúc nb tính vô công phu ngay sau khi tập thể dục.
« Sửa lần cuối: 16-03-2019, 12:48 AM gửi bởi nhà binh »
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #11 vào lúc: 17-03-2019, 07:17 AM

Chào bà con, thật ra BS tu tập cũng còn tài tử, giống như ếch ngồi đáy giếng..Nhưng cũng do gặp những thế bí trong cuộc sống cùng với tinh thần cầu đạo.. Rồi hiện nay BS cảm thấy Đạo tràng mình ít trao đổi sôi nổi như xưa.. nên BS không ngần ngại xin phép mở cái topic(chủ đề này)... và trong lòng cảm thấy vui vui... Rất mong tất cả bà con đều được hoan hỷ...
---
Rào đoán vậy xong BS lại xin phép trải lòng thêm vài kinh nghiệm có đúng lẫn sai.. cũng mong bà con đừng cười chê..

1.BS từng tiếp xúc với môn khí công (thiền năng lượng).. mặc dù có người nói thu nhận năng lượng thiêng liêng, có cả của Phật và Bồ tát.. Thật hư thì BS xin phép không bàn luận thêm nữa vì Thầy nhiều lần từng nói không có ATCNDTM thì chỉ loay hoay ở Cận Định..
2. Sau một thời gian, BS cố gắng chỉ ngồi thiền, NPQCĐ thì bị một thế kẹt là không có đủ sức khỏe để ngồi . Ấy thế mà nghe các cao thủ ở đâu đó ngồi 30 phút, 1 giờ.. thậm chí họ nhập thất 7 bảy 49 ngày... BS vẫn tin trong mê tín hoặc đôi lúc nghĩ họ xạo.   Còn ý kiến của Thầy thì bà con biết rồi đó.. => nằm tập là hay nhất..hihi
3. Nhí tập thì khỏi bàn, trẻ con nó vô tư thì khỏi nói.. Gạo cội thượng căn thì miễn chê... nhưng đa số bà con thì BS không dám khẳng định, làm sao mà có cái chuyện tập chơi chơi mà có kết quả nhỉ...
4. Cho nên cho đến hôm nay BS không ngại trình bày lại cái con đường chưa đi tới đích của mình trình bày lại nơi đây, nếu có sai sót hay hàm ý nào kiêu ngạo cũng mong bà con bỏ qua..hoan hỷ.
5. Nó là như thế này, yoga là từ động đến tĩnh, tư thế liên hoa hoặc ngồi sao cho thoải mái, ngồi lâu.. trong thư giãn thì nó còn có khí(prana)... nó phải chạy cùng khắp.. nó là sự kết hợp tinh tế của tư thế, hơi thở vi tế.. chú ý nhất là Kudalini dọc sống lưng và các luân xa... Nhưng năng lượng để làm gì, tập để vì mục đích sức khỏe, chữa bệnh hay để tiếp tục tiến tu....Huh
6.Nếu mình dừng lại ở chỗ này thì là Cận định, nhưng không có yếu tố số 5 thì sức khỏe thì kém.. con mắt thì mơ ngủ, cơ thể thì lười... cho nên cần có Câu niệm(mantra).. và ATCNDTM..để giải quyết tiếp theo cái chỗ này..
7. Không phải ngồi 1 tiếng để bất động, cái thân già, lớn tuổi mà nó mỏi cũng nên cho nó xoay qua xoay lại chớ khí nó kẹt làm sao.. trong khi cơ bắp nó mỏi cũng cần được giải phóng độc tố do quá trình trao đổi chất ở tế bào.. BS đang nói là nói do mình còn Cận định mà nói đó nha..!!!
8. Sự kết hợp hoàn hảo giữa tư thế, khí lực(prana) cùng với sự chú tâm câu niệm và hơn hết là đặt sự chú tâm mạnh mẽ này vào đề mục cùng lúc...tâm lực nó quen dần, mạnh dần...
9. Từ gần ra xa, từ mờ nên rõ.. từ thấp, trầm tới cao bổng.. kỹ thuật ATCNDTM này tất cả nhằm giúp cho hành giả tiến dần đến tâm lực mạnh mẽ... đến tu Nguyên con...
10.. Thôi BS lặn, tập tiếp đây.. khi nào có gì mới sẽ báo cáo với bà con..Kính chào ạ...hihi

« Sửa lần cuối: 17-03-2019, 07:29 AM gửi bởi bongsen »
Logged
tuephuong5
Thành viên


Bài viết: 585


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: tuephuong5
Trả lời #12 vào lúc: 19-03-2019, 11:25 PM

Roll Eyes Roll Eyes ::)7
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #13 vào lúc: 10-05-2019, 06:18 AM

Lê ki ma, trái cây quý bị lãng quên...

Không biết còn bà con nào biết trồng và dùng quả này hay không nữa...
Hôm nay tình cờ thấy bán ngoài đường bs dừng lại và mua về mấy quả vì cũng hơi nhớ cái hương vị ngày xưa, nhớ cái tuổi thơ, không ngờ về tới nhà và search hỏi Google thì nó ra mấy cái này đây.. hay là hay quá xá.. bà con ơi.hihi

https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AAkima

http://vneconomy.vn/tieu-dung/dinh-duong/lekima-trai-cay-quy-bi-lang-quen-20180813161858988.htm


Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học New Jersey, chất chiết xuất từ quả lêkima có thể thúc đẩy làm lành vết thương, tăng cường tái tạo mô và gây di cư tế bào. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng lêkima như là "một tác nhân hữu ích cho việc bảo dưỡng hoặc điều trị thẩm mỹ làn da cơ thể và da đầu". Những kết quả này không gây ngạc nhiên khi người bản địa của Peru đã sử dụng lêkima như một chất chống viêm (cũng như là một chất kháng nấm, kháng sinh và bổ dưỡng cho làn da) trong nhiều thế kỷ, do vậy lêkima còn được người Péru gọi là "vàng của người Inca" do tiềm năng này của nó.

Những nghiên cứu hiện đại cũng cho thấy lêkima giúp hỗ trợ ổn định đường huyết. Lêkima chứa chất ngọt không có gluten có thể giúp thỏa mãn cơn thèm đường mà không làm tổn hại đến cơ thể (không giống như đường glucose hoặc chất làm ngọt nhân tạo). Mặc dù có vị ngọt tự nhiên, nhưng lêkima là thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp do chỉ chứa 2g đường trái cây tự nhiên cho mỗi 11 g carbohydrat, có thể giúp ổn định lượng đường trong máu. Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Sao Paulo Catholic, Brazil, hàm lượng phenolic là ll,4mg/g trọng lượng khô. Một tương quan tích cực đã được tìm thấy giữa tổng hàm lượng phenolic và các hoạt động chống oxy hóa cho các chất chiết xuất cồn. Dung dịch nước chiết xuất từ lêkima có hoạt tính ức chế alpha-glucosidase cao nhất, giúp ổn định đường huyết.
Lêkima cũng giúp điều chỉnh đường tiêu hóa. Giống như nhiều loại trái cây, lêkima có nhiều chất xơ. Chất xơ giúp chúng ta hấp thụ sử dụng tốt đường, giảm đề kháng insulin, do đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường týp 2. Chất xơ cũng giúp chúng ta giảm tổng mức cholesterol do kích thích gan sản xuất muôi mệt, làm tăng sản xuất các thụ thể giúp hấp thu LDL.

Còn theo Đông y, thịt quả lêkima màu vàng, vị ngọt, nên qui loại thuộc hành Thổ, qui kinh Tỳ, được xếp vào nhóm trái cây có tính dương cùng nhóm như gạo lứt, kê, đậu đỏ, cà rốt, bí đỏ. Do vậy, giúp hỗ trợ điều trị những biểu hiện của chứng âm thịnh, vốn khá phổ biến trong xã hội hiện đại ngày nay như giảm hăng hái, khả năng suy nghĩ trì trệ, sợ hãi, lo lắng, ngờ vực, hoang tưởng và trầm cảm, ủy mị, hay ớn lạnh… Lêkima cũng rất tốt trong các trường hợp huyết áp thấp, các bệnh biểu hiện âm chứng, đặc biệt là ung thư, đái tháo đường, suy thận, tê bại, viêm xoang,...

hihi
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #14 vào lúc: 20-05-2019, 08:59 PM

Tình cờ sưu tầm được tài liệu này, trong đó có tổng hợp nhiều bài thuốc hoặc mẹo vặt đơn giản giúp ích cho bà con phòng và chữa bệnh..

https://drive.google.com/file/d/0B5Pq2TkHjzdrT3JGT09wZE5ZZTg/view?usp=drive_open


Trong đó có cả bài tập VTC trên chùa HSTĐ.

Trích dẫn :
" Tóm lại:
- Khom người - Hít vào: Đan Điền hiện diện (do hai lực nén vừa đủ có tính cách ngược chiều) Do sự hiện diện này mà khí tuy rằng là ít nhưng lại vừa đủ và tự động vào Đan Điền.
- Ưỡn người - Thở ra: Đan Điền biến mất.
Nhận xét: Trong hai động tác trên, làm cho Đan Điền lúc có, lúc không, nên nó tác dụng y như là cái van một chiều và chỉ hút khí vào đan điền từng chút một (đớp khí) mà thôi. Ông Bà mình dùng chiến thuật kiến tha lâu đầy tổ để mà luyện khí. Rất là hợp với luật thiên nhiên. Lúc đó, để ý ta thấy, Lổ Miệng đóng lại, Nối hai mạch Nhâm Đốc ở huyệt Ngọc Chẩm, để rồi tiếp tục khí lực được nối kết khi ngửa ra nhíu đít, để nối hai mạch Đốc Nhâm ở huyệt Trường Cường, khí lực được kích hoạt mạnh ở mỗi động tác ngửa ra từ đó. "Đóng Mở" tuần tự theo khí lực thì ứng với Âm Dương Khép Mở Khai Bế của Tạo Hóa vậy. Đây là lý do tại sao nói tập Vạn Thắng công đả thông được hai mạch Nhâm Đốc. Ngày xưa, Sư Minh (đã viên tịch khoảng 5 năm trước) trụ trì ở một ngôi chủa ở Thủ Thiêm đã bị Tẩu hỏa nhập ma, và nhờ tập Vạn Thắng Công mà thoát nạn.
Khác với những cách tập khí công khác: hành giả ngồi, nằm, đứng, theo phương cách của họ quán theo hơi thở và cố gắng "nhíu đít" như thế nào đó... Khí đổ xuống rất là nhiều! Nhưng mà đổ trúng thì rất là hay. Nhưng nếu mà đổ trật Đan Điền là tiêu ma liền. Hiện nay 99,99% là đổ trật Đan điền. Một số rất là ít đổ trúng do phước báu. Chớ không phải là do biết cách, và kết quả có người được, người không, hậu quả là dễ bị tẩu hỏa nhập ma, tinh xuất hoài cho đến chết, hoặc nhẹ hơn thì cũng bị "trỉ", lòi trê v.v... Do vấn đề là Khí cứ dồn xuống sai địa chỉ mà nó mới xảy ra thảm trạng trên. Còn nếu mà dồn đúng chỗ thì không có vấn đề gì đâu..."



Kính mời bà con thưởng thức...
 Cheesy Grin Cheesy
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #15 vào lúc: 31-05-2019, 11:27 PM

Nhiều bạn trẻ.. trong đó có bs.. đã từng mất phương hướng đi tìm lý tưởng trong cuộc sống...
Một quyển sách định hướng cho thầy cô giáo.. đang đương đầu với lối sống hiện đại..
Tuy chỉ là sưu tầm, nhưng xin cầu mong mọi thứ tốt đẹp nhất và mọi người bà con có thể tìm được chút giá trị "hạnh phúc"..
Trân trọng giới thiệu sách: Hạnh phúc trong 1 ý niệm...
http://hoclamnguoi.edu.vn/wp-content/uploads/2016/03/Hanh-phuc-trong-mot-y-niem-Tap-1-2-3-chuan-8-3-2016-1.pdf
A Di Đà Phật...
« Sửa lần cuối: 31-05-2019, 11:34 PM gửi bởi bongsen »
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #16 vào lúc: 06-06-2019, 05:31 AM

Xịn giới thiệu cùng bà con..Một số động tác yoga dành  cho người  cao  tuổi.
http://alobacsi.com/11-tu-the-yoga-cho-nguoi-cao-tuoi-n20121202052640113.html
Tuy nhiên, cách thở thế nào cho đúng, kèm với độ tập trung tư tưởng là quan trọng nhất.

Về thở, lúc ban đầu nên thở tự nhiên theo sức của mình.. Nâng cao thì thở bằng cuống họng để cảm nhận prana(khí công)..vv..
Có thể ngưng thở 4 hoặc 8 giây khi dừng ở mỗi tư thế..
Tập trung hay nhất cho dân cận định vẫn là. Quán mường tượng số điện tử...
Suy cho cùng; cho dù là việc đời hay đạo chăng nữa câu nói tùy duyên và biết đủ..mới thật sự quan trọng..
Nói chung chung thì thật vô cùng...
Chúc bà con ráng tập thêm món này để có sức khoẻ dẻo dai.  Cheesy
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #17 vào lúc: 12-06-2019, 12:58 AM

Với mong muốn góp thêm phần kiến thức và kinh nghiệm ít ỏi vào công trình Sức khỏe và Dưỡng sinh của đạo tràng, nay BS mạn phép xin chia sẻ một vài trích lược của một số Tài liệu mà BS cảm thấy tâm đắc...mong muốn chia sẻ để cùng học tập ạ! Trân trọng!

(Theo Đông y tân giải – BS.Lê Văn Trực)

Âm dương tân giải.
Từ trước, tiền nhân đã phát hiện nguyên lý Âm Dương của vũ trụ. Từ đó Âm Dương được sử dụng trong mọi lãnh vực về vũ trụ quan cũng như về nhân sinh quan. Tiền nhân cảm nhận được Âm Dương, phát hiện được nguyên lý Âm Dương. Do đó, mặc dầu nguyên lý Âm Dương tự nó rất phổ biến nhưng lại không phổ biến đối với con người, nên môn học Âm Dương được gọi là khoa học huyền bí.
Thật sự huyền bí không có nghĩa là câu chuyện ma quỉ. Huyền bí ở chỗ phức tạp, khó hiểu. Tuy phức tạp nhưng cũng có phần đơn giản có thể hiểu được. Chúng ta hãy đem cái phần đơn giản để bàn, để làm nền tảng cho vấn đề phức tạp của Âm Dương. Muốn được như vậy, chúng ta phải định nghĩa Âm Dương là gì?
Định nghĩa Âm Dương cũng như định nghĩa vũ trụ, định nghĩa con người , vv… rất khó, khó đến nỗi hầu như không thể được. Vì rằng định nghĩa có nghĩa là giới hạn đối tượng ta đang tìm hiểu qua ý niệm đơn thuần của ta trong khi đối tượng đang biến đổi vô cùng. Tuy nhiên, không định nghĩa thì không thể làm sáng tỏ ý niệm đơn thuần của ta để từ đó tìm hiểu đối tượng một cách sâu sắc và rốt ráo hơn.
Định nghĩa: Âm Dương là hai hình thái vừa tương phản vừa hỗ tương của mọi sự vật trong vũ trụ. Âm Dương mang nhiều quy luật: Phổ biến, Tương đối, Biến đổi.

Quy luật Phổ biến
Tính phổ biến của Âm Dương mang tính chất tuyệt đối vì rằng không có một hiện hữu nào mà không có Âm Dương, kể cả tinh thần lẫn vật chất, từ cái lớn nhất là vũ trụ và đến cái nhỏ nhất là hạt nguyên tử cũng phải có Âm Dương.

               Âm      Dương
Vật lý học      
   Độ cứng   Mềm          Cứng
   Quang học   Tối          Sáng
   Điện học   Điện âm   Điện dương
   Động học   Tịnh, chậm   Động, nhanh
   Âm học   Thấp            Cao
   Nhiệt học
                    Lạnh   Nóng
Hóa học      
               Kiềm (Base – OH-)              Cường toan (Acid – H+)
Xã hội      
                      Nghèo    Giàu
                      Loạn        Trị
Kinh tế      
                  Cầu           Cung
Quân sự      
                   Thủ            Công
                   Thoái   Tiến
Tâm lý      
                   Tiêu cực   Tích cực
                   Ghét           Thương
                   Buồn             Vui

Như vậy, nhất nhất cái gì hiện hữu thuộc tinh thần hoặc vật chất đều có Âm Dương. Biết một cách tổng quát như vậy, và từ đó có thể suy ra những vấn đề chứa đựng Âm Dương.
[…]
Riêng vấn đề Âm Dương trong y học, chúng ta phải bàn kỹ, ngoài những gì cha ông chúng ta đã bàn trong Đông y.
Y học:
Theo Y học Tây phương, không bàn đến Âm Dương, nhưng họ bàn tới vấn đề quân bình cơ thể. Qua Sinh lý học, Thần kinh học, Nội tiết học, vv… Chúng ta thử tìm hiểu Âm Dương là gì như thế nào trong cơ thể.
Sinh lý học:
-   Vấn đề biến dưỡng (Metabolism): gồm hai phần: Một phần gọi là thoái biến (Catabolism) để đào thải, hoặc để hấp thụ, hoặc để sử dụng; một phần là tiến biến (Anabolism) để tổng hợp và dự trữ. Hai phần đó phải quân bình. Đào thải và sử dụng phải quân bình với tổng hợp và dự trữ, nếu không sẽ bị bất cập hoặc thái quá.
-   Quân bình Acid và Base (Cường toan và Kiềm): Cường toan thuộc Dương, Kiềm thuộc Âm phải được quân bình. Nếu cường toan ở thế ưu sẽ trở nên nóng, kiềm ở thế ưu sẽ trở nên lạnh. Trong cơ thể, để điều hòa hai lượng acid và base đã có một chất đệm để giữ thế quân bình. Thở nhiều cơ thể trở nên Kiềm, nín thở hoặc nghẹt thở cơ thể trở nên Cường toan. Cơ chế quân bình acid và base rất phức tạp. (Sẽ bàn tới ở phần phế và thận).
-   Ăn thịt nhiều, nước tiểu trở nên acid; ăn rau cỏ nhiều, nước tiểu trở nên base. Bởi vậy, chúng ta bảo ăn thịt nhiều nóng, ăn rau nhiều mát. Thế là Âm Dương. Trong hệ thống Thủy dịch của con người luôn luôn lượng âm điện tử (Anion) dương điện tử (Cation) phải bằng nhau.

Hệ thần kinh Sinh Thực (Vegetative nervous System = Autonomic Nervous System)
Thần Kinh Sinh Thực là một hệ thần kinh tự động (khác hẳn với hệ thần kinh vận động, hoạt động do ý chí), luôn luôn hoạt động trong lúc thức cũng như lúc ngủ, lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Nhờ vậy, lúc chúng ta ngủ, tim vẫn đập, máu vẫn chảy đều trong huyết quản, phổ vẫn thở, hệ thống tiêu hóa vẫn làm việc, dạ dày và ruột vẫn co bóp theo tác động nhu động của nó. Thần Kinh Sinh Thực có hai hệ tương phản nhau: Trực giao cảm và Đối giao cảm.
-   Hệ Trực giao cảm là hệ thần kinh giúp cho con người lúc làm việc, lúc chiến đâu làm tim đập mạnh, giãn mạch máu trung ương (ngũ tạng như tim, gan, vv…) có lúc làm co hoặc giãn mạch máu ngoại biên (mạch máu tứ chi và da), làm nở cuống phổi để thở mạnh hơn, làm nở đồng tử ở mắt để nhìn rõ hơn. Như vậy hệ thần kinh Trực giao cảm là một hệ thống làm cho cơ thể con người tăng phần biến dưỡng ở giai đoạn thoái biến thức ăn dự trữ để tiêu thụ năng lượng tức là sử dụng năng lượng. Hệ Giao cảm rõ ràng thuộc Dương.
-   Hệ Đối giao cảm giúp cơ thể trong lúc nghỉ ngơi, tim đập chậm, tuần hoàn chậm; tăng nhu động của bộ máy tiêu hóa để hấp thụ thức ăn và tổng hợp thức ăn tinh chất nuôi dưỡng cơ thể; làm đồng tử teo lại lúc ánh sáng quá rực rỡ. Như vậy, Đối giao cảm là hệ thần kinh giúp cơ thể phân hóa thức ăn (từ ngoài vào) để tiến biến, tổng hợp và dự trữ thức ăn cho cơ thể; mang tính bảo tồn năng lượng, dự trữ năng lượng. Hệ Đối giao cảm thuộc Âm.
Trong cơ thể, hệ Trực giao cảm và hệ Đối giao cảm giằng co nhau ở thế hỗ tương để tạo thế quân bình. Nếu không ở thế hỗ tương giữa hai hệ là không thể được. Vì rằng nếu một hệ liệt sẽ đưa tới hệ kia cường, hoặc ngược lại.
Ví dụ: Ở phổi, nếu Trực giao cảm liệt thì Đối giao cảm sẽ làm cuống phổi co thắt không thở được. Ở đồng tử, nếu Đối giao cảm liệt thì Trực giao cảm cứ làm đồng tử nở ra hoài không điều tiết được, hoặc ngược lại.
Như vậy, Âm Dương hỗ tương đã rõ.
Tuyến Ngoại tiết và Nội tiết:
Trong con người có hai loại tuyến: Ngoại tiết và Nội tiết.
-   Ngoại tiết: Như tuyến tiêu hóa, tuyến nước bọt, tiết phân hóa tố (Enzyme) vào miệng, vào dạ dày, vào ruột để tiêu hóa thức ăn.
-   Nội tiết: Tiết kích thích tố (Hormone) đi thẳng vào máu đi tới tế bào trách nhiệm hoặc cơ quan trách nhiệm làm nhiệm vụ mà chất kích thích tố ảnh hưởng.
Tuyến Giáp trạng (Thyroid):
Tuyến giáp trạng tiết chất Thyroxin làm tăng độ ấm trong con người, Calcitonin làm tăng sự hấp thụ của chất Calcium vào xương.
Bên cạnh tuyến Giáp trạng có tuyến Phó Giáp trạng (Parathyroid) tiết chất Parathyroid Hormone hút chất Calcium từ xương đem vào máu. Như vậy, hai tuyến nằm chung với nhau, tương phản nhau Đó là Âm Dương.
Tuyến Tụy Tạng (Pancreas)
Gồm hai loại tế bào: Tế bào B (Beta) và tế bào A (Alpha).
   Tế bào B (Beta) tiết chất Insullin để làm giảm đường trong máu, đưa đường giản thể Glucose vào gan, tổng hợp thành đường phức thể Glycogen dự trữ tại gan.
   Tế bào A (Alpha) tiết chất Glucagon làm tăng đường trong máu bằng cách rút đường phức thể Glycogen từ gan tạo thành đường giản thể Glucose vào máu đến tế bào để tạo thành năng lượng nhờ sự đốt cháy của Oxy.
Thế là một tuyến, hai tế bào có nhiệm vụ tương phản, giằng co lấy nhau để quân bình lượng đường trong máu.
Tuyến Nang Thượng Thận (Adrenal Gland):
Gồm hai phần: Vỏ và Tủy.
   Vỏ Nang Thượng Thận: điều hòa lượng nước trong cơ thể qua sự hấp thụ và đào thải lượng muối Na (Sodium: muối ăn) và K (Potassium, nhiều trong chuối và lá khô).
   Tủy Nang Thượng Thận: Chứa Adrenalin và Noradrenalin, hai chất này làm tăng biến dưỡng, tăng độ ấm trong con người (ngoài tác dụng của tuyến giáp trạng). Có lẽ quẻ Khảm là ở đây, Thủy Hỏa là ở đây. Âm Dương là như vậy.
Tất cả đó là để minh chứng vấn đề Âm Dương trong cơ thể, rút từ những khám phá của Tây y. Vấn đề phức tạp hơn nhiều, nhưng tôi chỉ tóm tắt để người đọc không có trình độ Tây y hiểu được, và người đọc có trình độ Tây y sẽ hiểu nhiều hơn.

Quy luật tương đối
Tương đối là vấn đề tuyệt đối của Âm Dương vì rằng trong vạn vật không có gì hoàn toàn tuyệt đối. Bởi vậy Âm không thể nào hoàn toàn là Âm, Dương cũng không thể nào hoàn toàn là Dương. Quy luật tương đối mang nhiều tính chất: Ẩn phục và Hoán vị .. […]

Quy luật biến đổi (Động)
Âm Dương luôn luôn biến đổi. Ý niệm “luôn luôn” là tịnh. Vậy Âm Dương luôn luôn biến đổi: động, tịnh và tịnh, động. Cứ như vậy liên tục.
Trong quy luật biến đổi, mang nhiều tính chất: tính đồng lập (đồng lập tịnh và đồng lập động), tính lưỡng lập và tính phản phục.[…]
Tính phản phục:
Dịch học: Từ quẻ Kiền toàn Dương đến quẻ Cấu thiếu Âm và từ quẻ Khôn toàn Âm đến quẻ Phục thiếu Dương là hình thức phản phục của tạo vật, của Âm Dương, Âm cực chuyển sang Dương, Dương Cực chuyển sang Âm.
Hóa học: Có phản ứng hai chiều từ trái sang phải đến một giai đoạn lại chuyển từ phải sang trái không khác gì con lắc thuận nghịch trong vật lý. Toán học cũng vậy, từ cực tiểu sẽ chuyển dần về cực đại, rồi lại từ cực đại đi về cực tiểu.
Y học: Nhiệt cực sinh hàn, hàn cực sinh nhiệt cũng là hai hình thái phản phục.
[…]
(xem hình h0)
[…]
Qua phần Âm Dương tân giải, chúng ta hiểu được Âm Dương là gì. Từ quy luật Phổ biến, Tương đối đến Biến đổi của Âm Dương, đặc biệt quy luật Biến đổi, chúng ta thấy được những gì?
Chúng ta thấy Âm Dương từ tính Đồng Lập Tịnh là thái cực. Khi vì một nguyên nhân nào đó mà thái cực rung động thì Âm Dương bắt đầu được phân biệt trong cái thế Đồng Lập Động. Từ trạng thái hỗ tương đến lưỡng lập rồi phân ly, sau nữa là tương cầu tạo thành một thế quân bình mới, lập lại một chu kỳ khác, không khác gì chu kỳ khởi đầu. Đó chính là đặc tính phản phục của Âm Dương.
Như vậy luận lý của Dịch Học khác hẳn mọi thứ luận khác. Luận lý của Dịnh Học không có vấn đề thống nhất mâu thuẫn. Vì rằng mâu thuẫn được thống nhất thì không còn gì để sinh diệt. Huống gì có lớp người cuồng loạn bảo chặt đi một Âm hoặc một Dương để thống nhất mâu thuẫn. Không thể được, vì không mâu hoặc không thuẫn sao gọi được là thống nhất mâu thuẫn. Không gì cô Âm hoặc cô Dương mà tồn tại. Hiện tại, chúng ta thấy những bệnh cô Âm hoặc cô Dương đang chết. Vậy luận lý của Dịch Học là luận lý Phản Phục, cũng có thể gọi là luận lý “Hoàn Như Vô Đoan” vậy (vòng tròn không đầu mối). Điều này chúng ta sẽ thấy rõ trong Ngũ Hành tương sinh tương khắc. Riêng vấn đề Nhất Nguyên hay Nhị Nguyên là những từ ngữ của triết học Âu Tây. Đối với triết học Đông Phương, đặc biệt Dịch Học không ai bàn tới Nhất Nguyên và Nhị Nguyên. Nếu vì bất đắc dĩ mà phải dùng tới những từ ngữ triết học Âu Tây, chúng ta có thể bảo rằng chẳng có gì là Nhất Nguyên hoặc Nhị Nguyên mà chỉ có Nhất Thể Lưỡng Dụng.
Thái cực phân biệt thành Âm Dương, từ đó mới có không gian và thời gian, mới có trời đất, có lạnh có nóng, có mưa có nắng, có sinh vật, trong đó có sự hiện diện của con người. Từ đây, bắt đầu có phải có trái, có xấu có tốt, có nghèo có giàu, có loạn có trị, có bệnh có khỏe, có chết có sống. Người thầy thuốc là người chuyển bệnh thành vô bệnh, chuyển chết thành sống nếu khi mà mệnh chưa đến nỗi mất. Muốn được vậy, người thầy thuốc phải hiểu rõ cái lý của Âm Dương. Phải hiểu Hàn hay Nhiệt để nên Ôn hay Lương. Phải hiểu Hư (yếu) hay Thực (mạnh) để biết nên bổ hay tả. Phải biết Nhu biết Cương để biết trì hoãn hay gấp rút. Phải biết Nhược biết Cường để biết nên cho thuốc nhẹ hoặc thuốc mạnh. Phải hiểu được 6 khí (lục khí) 7 tình để biết vì nội nhân hay ngoại nhân. Ngoài ra người thầy thuốc phải biết được cảnh bần hàn hay phú quí, lo âu hay an nhàn của bệnh nhân cũng như thời loạn hay trị. Vì rằng tất cả đó là môi trường sống của con người. Âm Dương chênh lệch, từ đó bệnh tật dấy lên. Ngoài mạch lý, người thầy thuốc nhất nhất phải biết mọi việc liên quan đến đời sống của con người kể cả sinh hoạt thức ngủ và ăn uống,…
Người thầy thuốc phải luôn luôn tâm niệm, không bao giờ triệt Âm để tồn Dương hoặc triệt Dương để tồn Âm. Nếu trường hợp Thủy vượng Hỏa suy thì phải bổ Hỏa để bằng Thủy. Nếu Thủy thái quá, đi đến phù nề thì phải lợi Thủy trong lúc bổ Hỏa, trong trường hợp này cũng không thể triệt Thủy được. Trường hợp Hỏa vượng Thủy suy thì phải bổ Thủy để bằng với Hỏa. Nếu Hỏa quá vượng thì giáng Hỏa vừa đủ trong lúc bổ Thủy.
Nguyên tắc lớn là nâng cấp cái thấp lên bằng cái cao, không bao giờ triệt cái cao xuống bằng cái thấp. Đối với khí huyết cũng vậy.
Trái với nguyên tắc trên, người thầy thuốc suốt đời ân hận. Đúng với nguyên tắc trên, người thầy thuốc không mang tội với trời đất quỷ thần.

(còn nữa)
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #18 vào lúc: 13-06-2019, 11:46 AM

Tiên thiên và Hậu thiên (Sơ lược)

Hà đồ (tiên thiên).

Thiên nhất sinh thủy
       Địa lục thành chi
Địa nhị sinh hỏa
   Thiên thất thành chi
Thiên tam sinh mộc
   Địa bát thành chi
Địa tứ sinh kim
   Thiên cửu thành chi
Thiên ngũ sinh thổ
   Địa thập thành chi.

Chẵn là Âm (Địa nhị, tứ, lục, bát, thập); Lẻ là Dương (Thiên nhất, tam, ngũ, thất, cửu).
Nhỏ là mới Sinh, lớn là Trưởng, lớn nữa là Suy, lớn tột cùng là Tiêu.

(xem h.1)

Âm sinh ở địa nhị, trưởng ở địa tứ, suy ở địa lục và tiêu ở địa bát. Dương sinh ở thiên nhất, trưởng ở thiên tam, suy ở thiên thất và tiêu ở thiên cửu.
Vòng trong là nội, là mạnh, đang sinh trưởng và làm chủ.
Vòng ngoài là ngoại, là yếu, đang suy tiêu và làm khách.
Chữ “sinh” có nhiều nghĩa: sinh ra, sinh ra tại, xuất hiện tại.
Chữ “thành” có nhiều nghĩa: hóa ra, biểu thị.
Trong Hà Đồ, số “Thành” là do số 5 ở Trung Cung, cộng với số “Sinh” mà thành: Thiên Nhất sinh Thủy Địa Lục Thành Chi… Địa Tứ sinh Kim Thiên Cửu Thành Chi (5 + 1 = 6; 5 + 4 = 9). Như vậy số 5 là số chung. 1 và 3 là số Sinh và Trưởng của Dương. 7 và 9 là số Suy và Tiêu của Dương. 2 và 4 là số Sinh Trưởng của Âm. 6 và 8 là số Suy Tiêu của Âm.
Số 5 là số chung vì số 5 biểu thị Thổ, Thổ ở Trung cung, Trung tính chịu ảnh hưởng, nói cho đúng, chịu nhận tất cả mọi ảnh hưởng của Âm Dương.
Nhận Dương thì Dương sinh đẩy Âm ra ngoài như 5 + 1 = 6 (Thiên Nhất sinh Thủy Địa Lục Thành Chi).
Kết hợp với Âm thì Âm sinh đẩy Dương ra ngoài (Địa Nhị sinh Hỏa Thiên Thất Thành Chi).
Thổ ở đây chính là trái đất ta đang ở. Trái đất trong thái dương hệ, tùy độ xoay quanh mặt trời, trong một năm có 365 ngày, mà mùa có 4 mùa thay đổi: xuân, hạ, thu đông với 24 tiết khí, có 8 tiết khí quan trọng: Đông chí, Lập xuân, Xuân phân, Lập hạ, Hạ chí, Lập thu, Thu phân, Lập đông, rồi lại đến Đông chí. Cứ tứ thời bát tiết như vậy mãi mãi mỗi năm. Con người sống trên trái đất, lấy trái đất làm trung tâm nhìn sự xoay vần của trái đất để biết Âm tiêu Dương trưởng, Dương tiêu thì Âm trưởng. Tiêu trưởng đắp đổi nhau cũng như Suy Thịnh và Loạn Trị đắp đổi nhau vậy.
[…]
Như đã nói, số 5 là chung, là Trung tính hợp với Âm thì sinh Âm ở trong mà thành Dương ở ngoài, hợp với Dương thì sinh Dương ở trong mà thành Âm ở ngoài. Số 5 là Thổ, là trái đất. Trái đất gì cũng nhận, mùa Đông âm khí cực thịnh lạnh lẽo, tuyết phủ. Mùa Xuân trái đất nhận dương khí cho trăm hoa đua nở. Mùa Hạ dương khí cực thịnh cho cây trái sum xuê và nóng bức. Mùa Thu âm khí đã mạnh, mát lạnh thu teo…
Thiên Nhất sinh Thủy Địa Lục Thành Chi có nghĩa Dương Nhất sinh ơ Thủy (ở mùa Đông) thì thành Âm Lục ở ngoài. Chính là ngày Đông Chí Nhất Dương sinh. Vì Âm cực thịnh ở Đông chí thì phải sinh Dương (theo tính phản phục) và Âm bắt đầu suy.
Địa Nhị sinh Hỏa Thiên Thất Thành Chi có nghĩa Âm Nhị sinh ở Hỏa (ở mùa Hạ) thì thành Dương Thất ở ngoài. Chính là ngày Hạ Chí Nhất Âm Sinh. Dương cực độ ở Hạ chí thì phải sinh Âm và Dương bắt đầu suy.
Thiên Nhất và Địa Nhị không phải là thứ nhất, thứ hai mà có nghĩa Dương Nhất và Âm Nhị, nghĩa nữa là trước hết phải có Thủy Hỏa rồi mới có sinh hóa…
Thiên Tam sinh Mộc Địa Bát Thành Chi có nghĩa Dương Tam sinh ở mùa Xuân thì Âm Bát thành ở ngoài. Dương trưởng thì Âm tiêu. Ngày Xuân phân.
(Thiên Nhất = Dương sinh, Thiên Tam = Dương trưởng, Địa Lục = Âm suy, Địa Bát = Âm tiêu).
Địa Tứ sinh Kim Thiên Cửu Thành Chi có nghĩa Âm Tứ sinh ở mùa Thu thì Dương Cửu thành ở ngoài Âm trưởng thì Dương tiêu. Ngày Thu phân.
(Địa Nhị = Âm sinh, Địa Tứ = Âm trưởng, Thiên Thất = Dương suy, Thiên Cửu = Dương tiêu…)
Tất cả đó là ý nghĩa của Hà Đồ, Âm cực thì suy để Dương sinh (Đông chí). Dương trưởng thì Âm tiêu (Xuân phân). Dương cực thì suy để Âm sinh (Hạ chí). Âm trưởng thì Dương tiêu (Thu phân).
Người xưa đứng trên trái đất nhìn ngắm sự xoay vần của Âm Dương, hiểu được thịnh suy của tạo vật, bèn dùng Quái, Tượng, Hào, Từ và những con số đều là những ký hiệu phù hợp với sự suy tưởng để diễn đạt vũ trụ quan của mình. Chính vũ trụ đó cũng là Nhân sinh quan nữa vì rằng Nhân sinh Tiểu vũ trụ.

Lạc thư (hậu thiên).

(xem h.2)

Lạc Thư Hậu Thiên thiếu 5 Âm cho nên tổng số có 45 điểm, Hà Đồ Tiên Thiên thừa 5 Âm cho nên tổng số có 55 điểm. Lấy 55 + 45 = 100. 100 có ý nghĩa hình thức kiểu mẫu của Hà Đồ hợp với hình thức phi kiểu mẫu của Lạc Thư thì trở nên hoàn toàn 100 phần trăm hình thức vận chuyển Âm Dương của trời đất. Đó cũng là hình thức của sự đắp đổi giữa tuyệt đối và tương đối để có được cái toàn hảo. Thật ra không có tuyệt đối, Hà Đồ bị lệch về Âm, Lạc thư bị lệch về Dương. Nhờ sự chênh lệch đó mà Hà Đồ cũng như Lạc Thư đều vận chuyển. Sự chênh lệch đó không khác gì điểm tâm xoay của một trục quay để làm cho trục đó chuyển động. Ví dụ như hai bàn đạp của chiếc xe đạp vậy, bên này xuống thì bên kia lên, bên này trước thì bên kia sau. Hà Đồ và Lạc Thư là hai bàn đạp của bánh xe tạo hóa.
Hà Đồ và Lạc Thư, một bên Tiên Thiên, một bên Hậu Thiên, hai bên bổ túc cho nhau. Sự bổ túc đó mang tính cách Âm tính, tùy thuộc vào Âm thừa hay thiếu. Trong Hà Đồ và Lạc Thư  tổng số điểm Dương không hề đổi, luôn luôn bằng 25, trong khi điểm Âm đổi, Hà Đồ có 30, Lạc Thư chỉ có 20. Điều đó có thể có ý nghĩa Dương luôn luôn phải đủ, Âm có thể thừa hoặc thiếu.

Tiên thiên và Hậu thiên bát quái.


Quẻ Kiền thuần Dương, quẻ Khôn thuần Âm. Kiền tượng trưng cho Trời, Cha. Khôn tượng trưng cho Đât, Mẹ.
Kiền kết hợp với Khôn sinh ra Lục Tử (sáu đứa con), tức là sáu quẻ Chấn, Khảm, Cấn, Tốn, Ly và Đoài. Phân biệt âm Dương của sáu quẻ dựa trên nguyên tắc “chúng dĩ quả vi chủ” (nhiều lấy ít làm chủ). Ví dụ quẻ 1 hào Âm 2 hào Dương là Âm quái, ngược lại là Dương quái.
Kiền hợp với Khôn mà có ba gái; Khôn hợp với Kiền mà có ba trai. Điều đó chứng tỏ Âm Dương phải có nhau mới sinh hóa, và Âm gốc ở Dương, Dương gốc ở Âm.

(xem h.3)


Tam Tài: Tam Tài là ba ngôi. Cổ nhân quan niệm Thiên Nhân Hợp Nhất, Thiên Nhân Tương Dự (trời và người tham dự vào nhiệm vụ của nhau). Vì đó mới có ý niệm Tam Tài là Thiên Tài, Địa Tài và Nhân Tài…
Hà Đồ và Lạc Thư dùng điểm để biểu thị tiêu trưởng của Âm Dương.
Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái dùng quẻ (quái) để biểu thị tiêu trưởng của Âm Dương.

(xem h.4)

Ý nghĩa đích thực của Hà Lạc Đồ và Bát Quái.

Lúc bàn về Tiên Thiên và Hậu Thiên, chúng ta chỉ nói lên cái lý tại sao Hà Đồ là Tiên Thiên, Lạc Thư là Hậu Thiên và thế nào là Bát Quái Tiên Thiên, Bát Quái Hậu Thiên. Chúng ta chưa bàn đến ý nghĩa đích thực của Hà Lạc Đồ và Bát Quái. Ý nghĩa đó như thế nào? Cổ nhân bày Hà Lạc Đồ và Bát Quái để làm gì?
Theo tôi nghĩ, Hà Lạc Đồ mục đích nói lên sự tác hợp Âm Dương tạo nên thế vận chuyển theo hình thái tiêu trưởng qua năm giai đoạn Ngũ Hành: thuận (tương sinh) và nghịch (tương khắc). Hà Lạc Đồ còn bảo cho chúng ta biết nhờ vận chuyển của Âm Dương mới có năm chất liệu trong trời đất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Năm chất liệu đó vừa biểu thị yếu tố được tạo thành từ Âm Dương, vừa biểu thị năm giai đoạn năng lượng qua tính chất của chúng.
Còn Bát Quái Tiên Thiên và Hậu Thiên cũng có mục đích cho chúng ta biết cách phối trí Âm Dương theo tính cách kiểu mẫu hoặc phi kiểu mẫu để biến chuyển. Biến chuyển Âm Dương trong Bát Quái cho ta những hình tượng nước (Khảm), lửa (Ly), sấm chớp (Chấn), núi non (Cấn), đầm trạch (Đoài) và gió bão (Tốn). (Riêng Kiền Khôn chỉ là bản thể của Âm Dương). Như vậy, Hà Lạc Đồ và Bát Quái là hình thức vận chuyển Âm Dương Tiêu Trưởng để cho chúng ta chất liệu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và hình tượng núi sông, đầm trạch, sấm chớp, gió bão, vv… Tất cả đó là trời đất, vũ trụ. Hà Lạc Đồ và Bát Quái là hình thù vận chuyển của tạo hóa, trong đó có sự hiện diện của con người và những sinh vật khác.

Trùng quái

Bát Quái gồm tám Đơn Quái. Trùng Quái gồm tám Đơn Quái hoán vị - mỗi quái 8 lần – kết hợp với nhau thành cặp một mà thành Trùng Quái. Trùng Quái gồm 2 đơn quái hợp nhau. Đơn Quái nằm dưới được gọi là Nội Quái, Đơn Quái nằm trên được gọi là Ngoại Quái.
Với sự hoán vị - mỗi Quái tám lần – kết hợp với nhau từng cặp một, ta có 64 Trùng Quái (8 x 8 = 64). Tại sao cổ nhân bày ra Trùng Quái?
Thật ra Hà Lạc Đồ và Bát Quái mặc dầu nói lên được tính cách kiểu mẫu hoặc phi kiểu mẫu cũng như tính cách tuyệt đối hoặc tương đối của vấn đề vận chuyển Âm Dương, nhưng đó chỉ hoàn toàn nguyên lý thuộc phạm vi lý thuyết trừu tượng, tổng quát hóa, chưa thỏa mãn được những hình thái phức tạp của sự vận chuyển Âm Dương trong thực tế. Đơn cử một ví dụ: Đơn Quái chỉ có hoặc Âm Quái như Tốn, Ly, Đoài (hào Âm ít hơn hào Dương), hoặc Dương Quái như Chấn, Khảm, Cấn (hào Dương ít hơn hào Âm); kể cả Kiền và Khôn, tám quẻ thuộc Đơn Quái chỉ ở vào cái thế phân ly của tính Âm Dương lưỡng lập, chưa đáp ứng được tính đồng lập của Âm Dương. Chỉ cần một ví dụ đó đủ chứng tỏ một mình Đơn Quái không thể nào hình tượng hóa một cách đầy đủ những quy luật lớn của Âm Dương mà Hà Đồ Lạc Thư cũng như Bát Quái chứa đựng: phổ biến, tương đối, biến đổi …Một mình Đơn Quái không thể diễn tả được hiện tượng Hỏa Thủy Vị Tế hoặc Thủy Hỏa Ký Tế của hai quẻ Vị Tế và Ký Tế, cũng không thể diễn đạt được hiện tượng Thiên Địa Bĩ và Địa Thiên Thái như hai Trùng Quái Bĩ và Thái diễn đạt. Vì lý do như vậy, Trùng Quái xuất hiện sau Hà Đồ, Lạc Thư và Bát Quái (Đơn Quái) để lập thành lý thuyết Dịch Học.

Kết luận: Chúng ta đã sơ lược bàn tới Âm dương, Tiên Thiên, Hậu Thiên, Hà Đồ, Lạc Thư, và Bát Quái. Tất cả đó được gọi là Dịch Học. Dịch Học là một môn học phát biểu nguyên lý vũ trụ. Dịch Học được tiến triển qua nhiều giai đoạn. Cổ nhân chiêm ngưỡng và quan sát mọi hiện tượng của vũ trụ, thấy được cái LÝ của vũ trụ nhưng không đủ ngôn ngữ nên đã dùng tượng, quẻ để biểu thị cái lý đó. Dần dà, cổ nhân đã dùng đến con số từ 1 đến 9 trong Hà Lạc Đồ, từ 1 đến 3 trong Đơn Quái và từ 1 đến 6 trong Trùng Quái. Sau cùng, Chu Công rồi đến Khổng Tử đã dùng Từ để phân tích từng hào và từng quái (quẻ). Hôm nay, chúng ta cũng dùng Từ tức là ngôn ngữ, không phải để giải thích từng hào, từng quẻ, mà để giải thích nguyên lý của Dịch Học theo tinh thần tân giải. Và, từ đó chúng ta có thể áp dụng Dịch Học vào Y Học vì rằng con người và vũ trụ là một. Muốn hiểu Y Học phải biết khái niệm về Dịch Học.







Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #19 vào lúc: 14-06-2019, 10:13 PM

[..]
Ngũ Hành Tương Sinh
Tương Sinh không có nghĩa là cái này đẻ ra cái kia, cái này sinh ra cái kia. Tương sinh có nghĩa yếu tố này là nguyên nhân của yếu tố kia, yếu tố này xảy ra trước yếu tố kia, hoặc giai đoạn này tiếp bởi giai đoạn kia, giai đoạn này chuyển tới giai đoạn kia. Sự tiếp nối đó thuận hướng tăng dần tiến dần theo chiều Dương, từ Thổ, Kim, Thủy, Mộc và sau cùng là Hỏa.
 
(xem hình h5)

Thổ sinh Kim (ý nghĩa thực là đất sinh ra kim khí), tượng trưng cho yếu tố bất động chuyển tới yếu tố co được, giãn được. Tượng trưng cho giai đoạn yên tĩnh chuyển tới giai đoạn có chút chuyển động, tượng trưng cho giai đoạn trung tính đến giai đoạn tìm thế kiến tạo năng lượng.
Kim sinh Thủy (ý nghĩa thực là kim khí chảy ra nước), tượng trưng yếu tố ở thể đạc và lỏng (thủy ngân) chuyển tới thể lỏng hoàn toàn. Tượng trưng cho giai đoạn bắt đầu chuyển động (co giãn) đến giai đoạn toàn toàn chuyển động, tượng trưng cho giai đoạn tìm thế kiến tạo năng lượng đến giai đoạn thực sự kiến tạo năng lượng.
Thủy sinh Mộc (ý nghĩa thực là nước sinh ra cây cỏ), tượng trưng cho sự vô cơ chuyển tới hữu cơ, từ vô sinh chuyển tới hữu sinh. Tượng trưng cho thể động tiêu cực, bị động đến thể động tích cực, tự động. Tượng trưng cho giai đoạn thực sự kiến tạo năng lượng đến giai đoạn tìm thế hoạt động.
Mộc sinh Hỏa (ý nghĩa thực là gỗ đốt thành lửa), tượng trưng cho sự tổng hợp (cây cỏ) chuyển đến sự sử dụng, bộc phát. Tượng trưng cho sự thăng phát sinh trưởng đến chỗ tăng trưởng bành trướng cực điểm. Tượng trưng cho giai đoạn tìm thế hoạt động chuyển đến giai đoạn thực sự hoạt động. (Từ tích trữ năng lượng đến sử dụng năng lượng).
Hỏa sinh Thổ (ý nghĩa thực sự là lửa cháy xong thành đất), tượng trưng cho cực điểm trở về trung tính, cực đại trở về cực tiểu. Tượng trưng cho giai đoạn bộc phát sử dụng năng lượng trở về giai đoạn bắt đầu.

Ngũ Hành Tương Khắc

Tương khắc không có nghĩa yếu tố này chống đối yếu tố kia, không có nghĩa kim khí chặt đứt cây cỏ, nước dập tắt lửa, lửa đốt tan kim khí… Tương khắc chỉ có nghĩa tính chất của yếu tố này đối nghịch với tính chất của yếu tố kia. Như tính chất của Thủy mát mẻ đối nghịch với tính của Hỏa nên bảo Thủy khắc Hỏa. Tính của Kim thu teo, tính của cây cỏ thăng phát nên bảo Kim khắc Mộc. Ngoài ra tương khắc còn xảy ra lúc hai tính chất đối nghịch của hai yếu tố đứng lẫn vào nhau, hoặc giai đoạn năng lượng không theo thứ tự thuận chuyển theo chiều Dương mà đứng lẫn vào địa vị của nhau ở mức độ cực bất cập hoặc cực thái quá cũng gọi là tương khắc.
Thổ khắc Thủy (ý nghĩa thực: đất ngăn chặn được nước), tượng trưng cho tính chất tĩnh như Thổ khắc tính chất lưu hoạt như Thủy. Tượng trưng cho tính ẩm ướt và nóng của Thổ đối nghịch với tính lạnh ráo (mùa Đông) của Thủy. Ví dụ mùa Trường Hạ (tháng sáu) đối nghịch với tính lạnh giá của mùa đông.
Kim khắc Mộc (ý nghĩa thực: kim khí chặt được gỗ), tượng trưng cho tính thu teo (của Kim) nghịch với tính thăng phát (của Mộc). Ví dụ khí hậu Thu nằm trong mùa Xuân.
Thủy khắc Hỏa (ý nghĩa thực: nước dập tắt lửa), tượng trưng cho tính lạnh ướt (của Thủy) nghịch với tính nóng cháy (của lửa). Ví dụ khí hậu mùa Đông nằm trong mùa Hạ.
Mộc khắc Thổ (ý nghĩa thực: Cây ăn mòn đất), tượng trưng tính thăng phát (của Mộc) nghịch với tính trung tính bất động (của Thổ). Ví dụ khí hậu Xuân nằm trong mùa Trường Hạ (cây trái chỉ xanh tươi mà không già chín được).
Hỏa khắc Kim (ý nghĩa thực: lửa đốt cháy kim khí chảy), tượng trưng tính đốt cháy, nóng bỏng, bành trướng (của Hỏa) nghịch với tính co rút, lạnh lẽo (của Kim). Ví dụ khí hậu mùa Hạ nằm trong mùa Thu (cây trái vẫn bành trướng không chín kịp, không thu teo để chuẩn bị cho giấc ngủ mùa Đông).
Khí hậu Trường Hạ nằm trong mùa Đông; khí hậu mùa Thu nằm trong Xuân; khí hậu mùa Đông nằm trong Hạ; khí hậu mùa Xuân nằm trong Trường Hạ; khí hậu mùa Hạ nằm trong mùa Thu đều là hình thức giai đoạn năng lượng không chuyển hóa theo thứ tự thuận chuyển, mà ngược lại đứng lẫn vào nhau ở các vị trí cực bất cập hoặc cực thái quá nên gọi là tương khắc. Ngũ Hành Thuận chuyển là bắt đầu từ Thổ (giai đoạn 0) rồi tới Kim (1), Thủy (2), Mộc (3) và sau cùng là Hỏa (4). Nay không thuận chuyển mà lại cực bất cập hoặc cực thái quá.
Cực bất cập tức thụt lùi hai giai đoạn: giai đoạn 2 lùi về giai đoạn 0, 3 lùi về 1, 4 lùi về 2. Cực bất cập là Âm khắc Dương. Như mùa Hạ mà có khí hậu của mùa Đông là Thủy khắc Hỏa.
Cực thái quá tức nhảy vụt ba giai đoạn: giai đoạn 0 nhưng vọt lên giai đoạn 3, 1 lên 4. Cực thái quá là Dương khắc Âm. Như khí hậu Hạ nằm trong mùa Thu là Hỏa khắc Kim.
Tặc tà trong bệnh lý ngũ tà là hình thức tương khắc của ngũ hành.
[…]

Âm Dương trong Ngũ Hành:
Không đâu không có Âm Dương, Ngũ Hành cũng có Âm Dương: Thổ có Âm Thổ và Dương Thổ,  Kim có Âm Kim và Dương Kim… Như Dần Mão thuộc Mộc; Dần thuộc Dương Mộc, Mão thuộc Âm Mộc.. Tỳ Vị đều là Thổ; Tỳ thuộc Âm Thổ, Vị thuộc Dương Thổ (Tạng thuộc Âm, Phủ thuộc Dương). Tuy nhiên, nếu tính về năm hành thì Thổ trung tính, Kim và Thủy thuộc Âm, Mộc và Hỏa thuộc Dương.

Tính phản quĩ

Phản quĩ được dịch từ chữ Feedback. Phản quĩ có nghĩa đáp quà (ú đi dì lại), người ta biếu quà thì mình biếu lại. Thật ra Feedback-phản quĩ có nghĩa rất rộng; tuy nhiên, ở đây chỉ dùng giới hạn trong y học. Phản quĩ có hai loại: phản quĩ nghịch (Negative Feedback) và phản quĩ thuận (Positive Feedback).

Phản quĩ nghịch (PQN).

PQN là một hệ thống kiểm soát sự điều hòa và tính ổn định của sự sống. Trong cơ thể có hàng ngàn hệ thống kiểm soát bao gồm mỗi tế bào, mỗi bộ phận của mỗi cơ quan, ngoài ra hệ thống kiểm soát còn điều hòa sự sinh hoạt giữa các bộ máy trong cơ thể để toàn diện làm việc cùng một nhịp độ. Ví dụ trong máu dẫn thán khí (CO2 ) đến phổi rồi lấy dưỡng khí từ phổi thì tụy tạng và gan điều hòa lượng đường trong máu, cùng lúc thận lo đào thải nước tiểu và tái hấp thụ các khoáng chất cần thiết..vv…
Để rõ tính PQN, lấy một vài ví dụ:
-   Lúc ta đói bụng vì lượng glucose trong máu giảm, Hạ Bộ Thị Khâu (HBTK -Hypothalamus) kích thích chúng ta tìm thực phẩm. Sau lúc ăn, máu đầy đủ glucose, HBTK cho ta biết đã no, đừng ăn nữa.
-   Khát cũng vậy, khi trong người thiếu nước, trung tâm khát ở HBTK bị kích thích làm ta cảm thấy khát. Sau lúc uống nước đủ, trung tâm khát không còn kích thích, ta hết khát và ngừng uống.
-   Về sự cung cấp Oxygen (O2) và đào thải thán khí (CO2): khi máu mang O2 đến các tế bào, nếu tế bào đã đủ Oxy thì PQN một mặt không cho máu nhả Oxy, một mặt không cho tế bào hấp thu thêm Oxy nữa. Riêng vấn đề hô hấp, khi làm việc nặng nhọc hoặc tập thể thao.vv… thở nhiều, cơ thể đốt cháy nhiều thức ăn tạo nhiều thán khí và lấy thêm Oxy. Trường hợp thán khí quá thấp thì PQN làm giảm thở để cho thán khí tăng thêm. Đối với áp huyết cũng được PQN kiểm soát: các mạch máu lớn ở phần trên cơ thể, đặc biệt động mạch cổ (carotid arteries) có áp thụ tử (baroreceptor) đẻ cảm nhận áp huyết. Nếu áp huyết cao thì áp thụ tử sẽ chuyển dấu hiệu đến trung tâm não tủy, từ trung tâm não tủy sẽ chuyển mệnh lệnh đến trung tâm co giãn mạch máu (vasomotor center). Từ đây hệ trực giao cảm được mệnh lệnh giảm hoạt động nên tim đập chậm hơn, mạch máu ngoại biên giãn làm cho áp huyết giảm tới mức bình thường. Nếu áp huyết giảm quá, ngược lại, hệ PQN lại hoạt động ngược lại với trường hợp áp huyết cao và làm cho áp huyết tăng lên đến mức bình thường.
Tất cả trên là PQN – là hệ thống kiểm soát mọi hoạt động của mọi tế bào, của mọi cơ quan, và của mọi bộ phận để tất cả hoạt động một cách hòa điệu bất kể thời gian và không gian để giữ vững tính ổn định của Nội Môi Trường. Nếu các tế bào hoặc bất cứ một cơ quan hoặc một bộ phận nào hoạt động lạc nhịp, không chia sẻ tính hòa điệu toàn diện thì sự ổn định của Nội Môi Trường sẽ không còn và dẫn đến bệnh tật, dẫn đến sự chết.
Như vậy, PQN là một hình thức phản ứng ngược với kích thích ban đầu. Kích thích ban đầu làm tăng thì PQN làm giảm. Ngược lại, kích thích ban đầu làm giảm thì PQN làm tăng. Tăng hay giảm của PQN không ngoài mục đích giữ cho mọi hoạt động của tế bào, của cơ quan và của toàn cơ thể luôn làm ở thế quân bình và ổn định.

Phản Quĩ Thuận (positive feedback): PQN giúp sự sống điều hòa, tồn tại. Ngược lại, Phản Quĩ Thuận (PQT) dẫn tới sự chết. Ví dụ:
-   Đói ăn: HBTK có trung tâm “Đói và khát”. Khi trung tâm này kích thích chúng ta cảm thấy đói, chúng ta ăn. Với PQN sẽ làm ta ngừng ăn khi đã no. Ngược lại PQT mặc dầu đã no, vẫn kích thích chúng ta ăn. Ăn không biết no, ăn mãi dẫn tới bội thực mà chết.
-   Khát cũng vậy, trung tâm khát kích thích, ta nghe khát, uống và uống hoài vì PQT vẫn kích thích chúng ta uống, uống hoài mà chết.
-   Trường hợp xuất huyết: một người xuất huyết một lít máu, với PQN, tim phải đập nhanh để máu luân lưu trong cơ thể đủ 5 lít/phút thì mới sống được. Ngược lại, PQT thì máu càng ra, tim càng đập chậm làm cho máu luân lưu trong cơ thể giảm hẳn, chẳng những không đủ 5 lít/phút mà còn xuống thấp khoảng 3-2 lít/phút. Cơ thể chết. Xuất huyết là một sự kiện tiêu cực, tim đập chậm cũng là dấu chứng tiêu cực. Cũng như trường hợp Đói và Khát, kích thích ban đầu tăng, PQT tăng…
PQT không ngăn cản những hoạt động thái quá hoặc bất cập, ngược lại, thái quá thì làm thái quá thêm, bất cập thì làm bất cập thêm. Như vậy sự sống mất quân bình, Nội Môi Trường không còn tính ổn định nữa.


Tuyến giáp trạng
[…]
Tuyến giáp trạng rất quan trọng trong biến dưỡng căn bản, nếu không có Thyroxine thì cơ thể không thể phát triển. Đặc biệt nếu không Thyroxine thì cơ thể không chịu được lạnh và bị phù thủng, huyết áp giảm, tinh thần chậm chạp, ngủ li bì.vv…
Tuyến giáp và tủy nang thượng thận kết hợp với nhau, một bên tiêt Thyroxine, một bên tiết Adrenalin để một bên điều hòa biến dưỡng cơ thể và một bên cần cho sự phấn đấu của đời sống sinh lý đối với ngoại mội trường Hai bên hỗ trợ nhau để tạo nên sức sống động của cơ thể. Vì lẽ đó Tâm Hỏa (Quân Hỏa) và Thận Hỏa (Tướng Hỏa) là Tuyến Giáp Trạng và Tủy Nang Thượng Thận.

Bệnh do tăng giảm Thyroxine:
-   Giảm Thyroxine: Đàn ông sẽ mất sinh dục. Đàn bà kinh nguyệt sẽ không đều, và không chịu được lạnh. Những nơi xa biển, thiếu chất Iodine, tuyến giáp trạng làm việc nhiều làm cho tuyến càng lớn tạo thành bướu cổ…
-   Tăng Thyroxine: Có những bệnh như ung thư tuyến giáp trạng hoặc có bệnh làm Thyroxine tiết ra nhiều, con người gầy yếu, con mắt bị lồi.. (gọi là Grave disease).

Tuyến Tụy Tạng […]

Insulin và bệnh đái tháo đường (Diabete Mellitus): ĐTĐ
Đái đường vì Insulin có hai loại: Loại cấp tính và loại trì tính.
-   Loại cấp tính: Người bệnh thường trẻ từ 40 tuổi trở xuống. Loại này do tế bào Beta (B) bị hư hại không còn sản xuất được Insulin nữa. Do đó đường không được đưa vào tế bào cho nên đường trong máu cao, bị thải qua nước tiểu. Nước tiểu có đường, gọi là bệnh đái đường. Đường bị đái ra hết không còn để tạo năng lượng, cơ thể phải dùng chất mỡ và chất thịt để tạo năng lượng. Khi dùng chất mỡ để tạo năng lượng thì Cholesterol được tạo thành làm cho mạch máu bị nghẽn dẫn tới cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đui mù, có khi phải cắt cả chân hoặc cả tay,vv…
Muốn chữa bệnh ĐTĐ cấp tính, trừ Insulin không có gì chữa được. Bệnh nhân phải dùng Insulin hàng ngày.
-   Loại trì tính thường xảy ra cho người bệnh từ 40 tuổi trở lên. Nguyên nhân có thể vì tế bào Beta (B) tiết Insulin không đủ hoặc có Insulin nhưng Insulin yếu nhược không đủ hoạt tính để biến dưỡng chất đường. Nếu không trị liệu, hậu quả vẫn như loại cấp tính. Tuy nhiên, nếu trị liệu có thể dùng ít Insulin hơn loại cấp tính hoặc dùng loại thuốc tăng hoạt Insulin của bệnh nhân.

 Smiley

Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #20 vào lúc: 16-06-2019, 01:17 AM

THỦY HỎA - KHÍ HUYẾT (Theo đông y tân giải - BS Lê Văn Trực)

Thủy Hỏa
Âm Dương là ý niệm trừu tượng để tổng quát hóa nguyên lý mâu thuẫn hỗ tương của hai thể đối lập trong mọi sự vật.
Về mặt Y học. Âm Dương là thể, Thủy Hỏa là dụng; ý cổ nhân muốn nói Âm Dương là nguyên lý, Thủy Hỏa là thực thể. Thủy là phần Âm nhưng phần Âm (Âm phận) của cơ thể không phải chỉ có Thủy. Hỏa là Dương nhưng phần Dương (Dương phận) của cơ thể không phải chỉ có Hỏa. Tuy nhiên, Thủy Hỏa là hai yếu tố quan trọng bậc nhất để lập mệnh. Không Thủy hoặc không Hỏa, con người không tồn tại. Đông y chia Thủy và Hỏa mỗi thứ làm hai:
-   Thủy có Thủy Hậu Thiên và Thủy Tiên Thiên
-   Hỏa có Hỏa Hậu Thiên và Hỏa Tiên Thiên
Hậu thiên là hữu hình, thấy được, đo được, cảm được.
Tiên Thiên là vô hình, không thấy được, không cảm được và là gốc của Hậu Thiên.
[…]
Tương quan giữa Thủy Hỏa Tiên Thiên
Âm Dương là tiếng gọi, là ý niệm nói lên hai tính chất mâu thuẫn hỗ tương. Lúc bàn về Âm Dương, thấy Âm trong Dương, Dương trong Âm; bàn về Hà Lạc Đồ thì có Âm trong Dương ngoài hoặc Dương trong Âm ngoài. Ở đâu có Âm thì ở đó có Dương, ở đâu có Dương thì ở đó có Âm. Hà Đồ bảo: “Thiên Nhất Sinh Thủy, Địa Nhị Sinh Hỏa” nghĩa là trước hết có Thủy Hỏa.
Đối với con người Thủy và Hỏa là hai yếu tố quan trọng, căn bản cho sự sống. Thủy Hỏa là hai thực thể của Âm và Dương. Như vậy ở đâu có Thủy thì ở đó có Hỏa, ở đâu có Hỏa thì ở đó có Thủy. Thủy Hỏa nương tựa vào nhau như sông nước và mặt trời. Nước không có mặt trời thì không vận chuyển được, mặt trời không có nước thì chỉ có sự đốt cháy. Mặt trời dựa vào nước, nước dựa vào mặt trời để sinh vật nảy nở như Thủy Hỏa trong con người nương tựa vào nhau để con người tồn tại và phát triển. Nếu con người không Hỏa mà chỉ có Thủy có khác gì trởi chỉ có mưa mà không nắng (Bắc cực).
Tôi đã từng dùng bài Lục Vị để chữa người Thủy hư; sau lúc uống thuốc bệnh nhân có cảm giác như đại hạn gặp mưa. Bài Bát vị để chữa người Hỏa hư; sau lúc uống thuốc bệnh nhân có cảm giác như mùa đông gặp nắng ấm.
Thủy hỏa nương vào nhau một cách mật thiết và là hai yếu tố của lập mệnh cho nên Đông y chú trọng đến Thận Thủy, đến Mệnh Môn Hỏa và Tâm Hỏa.
Tôi đã dùng sinh lý Tây y để giải thích rằng Thận Thủy là vỏ nang thượng thận, là Aldosterone của vỏ nang thượng thận (Adrenal Cortex). Mệnh Môn Hỏa là tủy nang thượng thận, là Adrenalin của tủy nang thượng thận (Adrenal Medulla). Tâm Hỏa hay Quân Hỏa là Thyroxine của Tuyến giáp trạng (Thyroid). Tôi cũng đã giải thích một cách giản lược cơ chế hoạt động của Aldosterone, Adrenalin và Thyroxine nghĩa là giải thích cơ chế hoạt động của Thủy Hỏa trong Tây y. Đối với Đông y, chỉ giải thích Thủy Hỏa theo hiện tượng như nóng, khô là Hỏa; lạnh ướt là Thủy.vv… Riêng về cơ chế của Thủy Hỏa, Đông y phải nhờ đến Dịch Học để giải thích nào thăng nào giáng, nào Thủy trong Hỏa hoặc Hỏa trong Thủy, hoặc Thủy Hỏa Ký Tế, Vị Tế,.vv… Tôi phải diễn giải ở đây để giới Tây y hiểu lý luận Đông y về Thủy Hỏa, cũng như giới Đông y hiểu lý luận của Tây y về Thủy Hỏa mà tôi đã dẫn chứng một cách thô thiển ở trên.
Theo Y Dịch, Đông y bảo quẻ Khảm ứng với Thủy, là biểu tượng của Thủy.
 
Quẻ Khảm gồm hai hào Âm bọc lấy một hào Dương. Thận thuộc Thủy, quẻ Khảm ứng với Thủy tức ứng với thận. Thận thuộc Thủy, thuộc Âm. Hai hào Âm tượng trưng cho hai thận. Hào Dương ở giữa tượng trưng cho Hỏa. Hỏa đó là Hỏa nằm trong Thủy, có tên Long Hỏa, Tướng Hỏa, Mệnh Môn Hỏa. Dựa vào quẻ Khảm, Đông y cho rằng Mệnh Môn Hỏa nằm giữa hai quả thận.
Bài thuốc Bát Vị Quế Phụ để bổ Mệnh Môn Hỏa là bổ cho hào Dương ở giữa hai hào Âm của quẻ Khảm, là bổ Hỏa trong Thủy, là bổ một Hỏa ở giữa hai Thủy. Như tôi đã bàn về Thận Thủy và Thận Hỏa ở quyển Mạch Lý Cơ Trung, Mệnh Môn Hỏa là tủy thượng thận, và Thận Thủy chính là vỏ thượng thận. Toàn nang thượng thận, cả vỏ và tủy là hình thù quẻ Khảm.
 
Bài Lục Vị bổ cho vỏ thượng thận.
Bài Bát Vị bổ cho tủy thượng thận, tức là bổ Hỏa trong Thủy. Muốn bổ Hỏa trong Thủy phải đi qua Thủy cho nên Quế Phụ của bài Bát Vị phải mượn sức Lục Vị để dẫn qua qua vỏ mà vào tới tủy. Như vậy bài Bát Vị vừa bổ cho Hỏa vừa giúp cho Thủy; bài Lục Vị bổ cho Thủy để quân bình với Hỏa, để Thủy mạnh lên nén Hỏa xuống. Tưởng rằng Lục Vị phạt Hỏa mà kỳ thực bảo tồn cho Hỏa bằng cách không cho Hỏa thao tước mất đi. Như vậy, theo Dịch Lý, bổ Hỏa thì tự nhiên giúp cho Thủy; bổ Thủy tự nhiên giúp cho Hỏa. Thủy Hỏa là Âm Dương luôn luôn có tác động hỗ tương. Trong Tây y, chất Cortisol ở vỏ thượng thận kích thích tăng hoạt Adrenalin và Noradrenalin … Chứng liệu đó cho biết Lục Vị bổ Thủy mà còn giúp cho Hỏa nữa.
Ở trên tôi bàn tới Thủy và Hỏa của Mệnh Môn Hỏa, cả Thủy lẫn Hỏa đã nằm trong biểu tượng quẻ Khảm. Nay tôi bàn tới Quân Hỏa (cổ nhân gọi là Tâm Hỏa). Y dịch dùng quẻ Ly tượng trưng cho Tâm Hỏa tức Quân Hỏa. Theo Ngũ Hành, Tâm thuộc Hỏa, Dịch Lý thì Ly thuộc Hỏa. Do đó, quẻ Ly biểu thị cho Tạng Tâm. Đông y, đặc biệt Hải Thượng cho rằng quẻ Ly có một hào Âm được bọc bởi hai hào Dương. Hào Âm ở giữa tượng trưng cho chân Âm, bổ chân Âm là bổ vào hào Âm. Tâm có huyết, huyết là hào Âm trong quẻ Ly. Tôi đã dùng cơ thể học cũng như sinh lý học Tây y để bác thuyết Quân Hỏa tức Tâm Hỏa của cổ nhân, và lập luận rằng Quân Hỏa tức Hỏa của tuyến Giáp trạng, là chất Thyroxine của tuyến giáp trạng. Như vậy, có thể dùng quẻ Ly để biểu thị cho Quân Hỏa là tuyến giáp trạng được không? Điểm đó không quan trọng (tuy nhiên để dọc quẻ Ly vẫn có hình thù tuyến giáp trạng) chỉ biết rằng quẻ Ly thuộc Hỏa, thuộc Dương có Âm lẫn vào. Không Âm nào không có Dương, không Dương nào không có Âm. Trừ Kiền và Khôn chỉ là ý niệm tuyệt đối, toàn Dương hoặc toàn Âm.
Sự kết hợp giữa Ly và Khảm có hai cách để thành hai quẻ:
1.   Thủy Hỏa Ký Tế (Thủy ở trên Hỏa ở dưới)
2.   Hỏa Thủy Vị Tế (Hỏa ở trên Thủy ở dưới).
Thủy Hỏa Ký Tế, ý nói Thủy Hỏa đã làm xong việc. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế gồm Khảm Thủy ở trên và Ly Hỏa ở dưới. Người xưa giải thích lửa ở dưới để đun được nước sôi, xong việc.
Hỏa Thủy Vị Tế, ý nói Thủy Hỏa chưa làm xong việc. Quẻ Vị Tế Thủy Khảm ở dưới và Ly Hỏa ở trên. Hỏa trên mặt nước là Hỏa vô dụng.



(Quẻ Thủy Hỏa ký tế) xem hình.

Thủy Hỏa Ký Tế là một quẻ trong Dịch Học, Thủy là Khảm nằm trên. Hỏa là Ly nằm dưới tượng trưng cho việc đã làm xong. Quẻ Ký Tế cũng như mọi quẻ khác, tùy cách sử dụng và cách diễn dịch trong nhiều lãnh vực khác nhau. Riêng đối với Đông y, quẻ Ký Tế được sử dụng để diễn dịch phương pháp trị liệu về Thủy Hỏa trong cơ thể:
-   Bảo rằng Khảm thuộc Thủy phải đi lên, Ly thuộc Hỏa phải đi xuống – Hỏa phải giáng xuống, Thủy phải nâng lên với ý nghĩa Thủy Hỏa tương giao. Điều đó đúng.
-   Bảo rằng Khảm thuộc Tướng Hỏa phải đi lên, Ly thuộc Tâm Hỏa phải đi xuống, có như vậy Tâm Hỏa (Quân Hỏa) và Thận Hỏa (Tướng Hỏa) mới tương giao cũng rất đúng.

-   Bảo rằng dùng bài Bát Vị Quế Phụ để dẫn Hỏa quy nguyên (về đúng nguồn gốc), có nghĩa đem Hỏa về Mệnh Môn Hỏa – Hỏa nằm trong quẻ Khảm – Hỏa nằm trong Thủy. Dựa vào Ký Tế, tôi không đồng ý lý luận đó. Quẻ Khảm tượng trưng cho Thủy Hỏa vô hình (Tiên Thiên). Quẻ Ly là Quân Hỏa vô hình. Hai quẻ hợp lại thành quẻ Ký Tế. Bài Bát Vị Quế Phụ chữa theo lý của quẻ Ký Tế (để Tâm Thận tương giao) thì quy nguyên không chỉ riêng cho Thận Hỏa mà còn cho cả Quân Hỏa nữa.

Khí Huyết
Đối với Đông y, sau Thủy Hỏa là Khí Huyết. Đông y bảo Thủy Hỏa quan trọng, thuộc Tiên Thiên, Khí Huyết thuộc Hậu Thiên. Nghĩa rằng có Thủy mới có Huyết, có Hỏa mới có Khí. Thủy Hỏa sinh ra Khí Huyết; lại bảo rằng bệnh nhẹ thì chữa về Khí Huyết, bệnh nặng thì chữa về Thủy Hỏa. Điều đó rất hiển nhiên.
Tuy vậy, Huyết là gì? Khí là gì? Và tương quan giữa Khí Huyết như thế nào thì Đông y đã nói rõ theo ngôn ngữ Đông y. Đông y bảo Khí là Dương, Huyết là Âm. Khí thuộc Tỳ và Phế. Huyết thuộc Can và Tâm. Đông y có quan niệm bổ Khí có thể thêm cho Huyết (sinh Huyết). Bổ Huyết không thể giúp cho Khí (không sinh ra huyết…). Thêm nữa, thuốc bổ Khí nên có Huyết như vị Đương Qui (bổ Huyết) trong bài Bổ Trung Ích Khí. Thuốc dưỡng Huyết phải có những vị mang khí tính như vị Xuyên Khung trong bài Tứ Vật.vv…
Khí là Dương, Huyết là Âm. Vậy Khí với Dương và Huyết với Âm có đồng tính đồng đẳng hay không? Tôi nghĩ là không. Khí với Huyết thì Khí là Dương, nhưng khí với Dương thì Khí là phần động của Dương. Dương là thể, khí là dụng. Khi ta yên nghỉ mà mặt mũi đầy đủ khí sắc, đó là một phần hoạt động của Khí trong cái Dương tiềm tàng trong cơ thể. Khi ta dùng đến sức mạnh thể xác hoặc tinh thần thì phần Khí động mạnh trong ta còn phần Dương đang dần dần tiếp sức cho phần Khí. Dương là kho dự trữ của Khí. Chữa bệnh về Khí phải cho thông khí như: Trần bì trong bài Bổ Trung.
Chữa Dương phải tàng Dương như bài Tứ Quân hay bài Cứu Dương.
Huyết đối với Khí thì Huyết là Âm, nhưng Huyết đối với Âm thì Huyết là phần động của Âm. Âm là thể, Huyết là dụng. Âm bao gồm những Âm chất như Thủy dịch nội ngoại bào v.v… kể cả Huyết nữa.
Chữa Huyết, huyết phải động như Xuyên Khung, Đương Qui. Chữa âm, âm phải tịnh như Thục Địa, Sơn Thù, Hoài Sơn.
Lúc ta nằm ngủ yên tịnh thì thuộc về Âm mà Huyết vẫn chảy trong cơ thể. Huyết chảy được trong cơ thể là nhờ khí lực của tim bóp, nhờ tính cường cơ, cường huyết quản.v.v… mà chảy được. Tim bóp, tính cường quản, cường cơ đều thuộc về Khí, và những cái thuộc về Khí đều nhờ Huyết mang thức ăn và dưỡng khí (O2) tới mà đủ khí để làm việc. Như vậy Khí Huyết phải có nhau như Âm với Dương vậy. Mất Khí thì Huyết chết, thiếu Huyết thì Khí cũng chết. Khí Huyết tồn tại cho nhau và vì  nhau.
Ở trên, chúng ta sơ lược về Khí Huyết theo quan niệm của Đông y. Cũng theo quan niệm đó, Đông y đã dùng dược liệu trị bệnh về Khí Huyết rất hiệu quả. Phải nhận rằng quan niệm và Khí Huyết của Đông y rất đúng. Tuy nhiên, quan niệm và ngôn ngữ đó khó phổ cập ở thời đại chúng ta. Nay, chúng ta phải dùng ngôn ngữ khoa học để tiếp tục sự nghiệp cổ nhân bàn về Khí Huyết.
Khí.
[…]
Như vậy, tất cả mọi thức ăn đều có thể sản xuất năng lượng. Năng lượng được dự trữ dưới dạng ATP (Adenosine Triphosphate) và được sử dụng nhiều hay ít tùy phản ứng hóa học hay vật lý nhiêu hay ít trong cơ thể nghĩa là tùy mức độ biến dưỡng mạnh hay yếu của cơ thể lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi (biến dưỡng căn bản). Biến dưỡng mạnh bao nhiêu thì năng lượng được sử dụng nhiều bấy nhiêu. Năng lượng sử dụng nhiều bao nhiêu thì nhiệt độ cơ thể tăng bấy nhiêu, vì nhiệt lượng hao phí (không dự trữ) đã đành, còn do chính các phản ứng biến dưỡng tạo ra.
Để kết luận, điều mà Đông y gọi là Khí chính là ATP. Khí có hai loại: Khí đang sử dụng là ATP đang phóng thích 8.000 calories để được sử dụng và Khí đang được dự trữ là ATP đang tiềm ẩn trong các tế bào chưa được sử dụng, chính là Dương đang tiềm ẩn. Tất cả đó là khí lực của con người nói riêng, và Dương tính con người nói chung. Khí là phần động của Dương. Phần động của Dương chính là ATP đang sử dụng.
Khí mà được bàn ở trên là năng lượng do thức ăn cung cấp, do con người chọn lựa mà thành. Khí đó hoàn toàn khác hẳn năng lượng của vũ trụ ảnh hưởng đến con người hàng ngày hàng phút. Năng lượng vũ trụ mà Đông y thường nói gồm sáu khí: Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Thiếu Dương, Dương Minh và Quyết Âm.
(P/S: Chất ATP là năng lượng dự trữ trong các tế bào và được sử dụng trong mọi hoạt động của từng tế bào nói riêng và toàn cơ thể nói chung như hô hấp, tiêu hóa, tuần hoàn, bài tiết.vv… Bất cứ một hoạt động nhỏ nào của cơ thể đều cần đến năng lượng ATP, dầu là một nụ cười hoặc một liếc mắt thôi cũng cần tới ATP…)
Huyết.
[….]
Nhu cầu dưỡng khí
Dưỡng khí cần thiết cho sự sống. Điều đó ai cũng biết, không dưỡng khí thì chết. Tuy nhiên, cần để làm gì, và cần như thế nào thì nhiều người chưa hiểu rõ.
Cơ thể cần Oxygen để đốt cháy thức ăn để tạo năng lượng ATP, tức để tạo khí. Ngoài ra oxygen còn giúp cơ thể đốt cháy acid lactic để tạo năng lượng. Nếu không đủ oxygen thì acid lactic tồn tại lâu trong cơ thể, trong khớp xương, trong bắp thịt làm chúng ta đau mỏi, có khi nhức nhói phải nhờ đến tẩm quất (massage) để máu huyết lưu thông mới hết bệnh, bởi lẽ lúc máu huyết lưu thông mang oxygen đến chỗ đau nhức, tiêu hóa được chất acid lactic thì hết đau mỏi. Nhiều động tác thể dục làm các khớp xương kêu răng rắc, chúng ta cảm thấy khoan khoái vì rằng khớp xương do hai xương tiếp cận nhau, có khi tạo thành hình thức của một lỗ chân không (vacuum), máu không vào được, khi khớp xương kêu răng rắc là khi lỗ chân không hở ra, máu mang theo oxygen thừa thế chảy vào rửa sạch hoặc tiêu hóa chất acid lactic.
Sau khi chúng ta tập thể dục thể thao, hoặc làm việc nặng nhọc chúng ta thở hổn hển. Đó là do cơ thể đòi hỏi oxy để đốt cháy thức ăn tạo năng lượng thay thế năng lượng đã mất đi trong lúc lao tác nặng nhọc và cũng để oxy hóa (đốt cháy), acid lactic được sản xuất trong lao tác cần tới năng lượng kỵ khí (anaerobic) khi oxygen không được cung cấp đầy đủ bởi hô hấp.
Qua những điểm trình bày về huyết ở trên, chứng tỏ huyết là một mô rất quan trọng cho sự sống. Không huyêt, không có miễn nhiễm tự nhiên. Không huyết, không có sự chuyên chở thức ăn đến tế bào. Không huyết, không có sự đào thải chất cặn bã. Không huyết, không có huyết sắc tố chuyên chở dưỡng khí (O2) để đốt cháy thức ăn tạo năng lượng ATP – khí lực của cơ thể, và cũng không đào thải được thán khí (CO2). Không huyết là không có sự sống.
Sơ lược hiểu biết về Huyết học Tây phương, so sánh với ý niệm của Đông y về huyết, mặc dầu chỉ có tính cách lý thuyết và kinh nghiệm, tầm quan trọng của huyết không khác nhau là mấy.

Áp dụng ngũ hành vào lục phủ, ngũ tạng
[…]
Tương quan giữa Tỳ và Phế
Khi còn nằm trong bụng mẹ, qua thai bàn (nhao), thai nhi được nuôi dưỡng bởi thức ăn từ máu của mẹ, kể cả dưỡng khí (O2). Nếu chỉ có thức ăn mà không có dưỡng khí để đốt thức ăn thành năng lượng thì thai nhi sẽ chết. Khi hài nhi lọt lòng mẹ, tiếng khóc đầu tiên báo hiệu phổi của hài nhi bắt đầu hô hấp, bắt đầu lấy dưỡng khí một cách độc lập khỏi máu mẹ. Đời sống sinh lý của hài nhi bắt đầu độc lập. Với thức ăn từ sữa mẹ đầy đủ thịt, đường và mỡ, Tỳ của hài nhi tiết các chất phân hóa tố để tiêu hóa thức ăn, một mặt phổi của hài nhi cung cấp dưỡng khí để đốt thức ăn tạo thành năng lượng cho sự sống. Ngoài ra Tỳ còn tiết kích thích tố Insulin và Glucagon để điều hòa lượng đường trong máu. Chính nhờ dưỡng khí (O2) từ phổi mà đường (Glucose) được đốt cháy để tạo thành năng lượng dưới dạng ATP (Adenosin Triphosphore).
Với lý lẽ như trên, Tỳ không Phế thì không có sự sống. Phế không Tỳ cũng không có sự sống. Tỳ với Phế có quan hệ mật thiết – Thổ với Kim có quan hệ mật thiết. Ngoài ý nghĩa sinh lý học, chúng ta có thể hỏi tại sao tạo hóa không thay thế “tiếng khóc chào đời bằng tiếng cười chào đời”, cười lớn cũng nở phổi vậy.!?  Grin Cheesy
[…]
Tương quan giữa Phế và Thận
Trong cơ thể vấn đề quân bình kiềm/toan (Acid/base balance) rất quan trọng. Theo tôi, quân bình kiềm/toan đối với Tây phương tương tự quân bình Âm Dương Thủy Hỏa của Đông y vậy. Quân bình kiềm/toan luôn luôn dựa vào nồng độ H+ tức pH trong cơ thể. pH phải luôn luôn bằng 7.4 (pH=7.4). Nếu pH < 7.4 là acid quá (toan quá) hoặc kiềm quá (nếu pH > 7.4) đều hại cho sự sống. Vì vậy trong cơ thể có hai cơ chế điều hòa kiềm/toan là: Hệ thống chất đệm (Buffer) và Phế (phổi) với Thận.
-   Hệ thống chất đệm rất phức tạp, tôi chỉ đơn cử ở đây về Carbonic Acid (H2CO3) do kết hợp giữa thán khí (CO2) và nước (H2O)
H2O + CO2 --> H2CO3
Lúc H2CO3 bị phân ly sẽ cho H +  và HCO3 (Bicarbonate). HCO3 là kiềm, H+ là Acid. Quân bình giữa H+ và HCO3 là quân bình kiềm/toan (acid/base).
-   Phế và Thận: Giúp nhau quân bình kiềm/toan. Trong biến dưỡng sự đốt cháy thức ăn để tạo năng lượng luôn luôn tạo ra nhiều CO2. Vì CO2 + H2O --> H2CO3 là acid. Nếu acid quá phế phải thở nhiều, đào thải CO2 làm giảm acid để quân bình với kiềm. Nếu vì một lẽ gì phổi yếu không thải đủ CO2 cơ thể trở nên acid thì thận phải giúp phổi thải H+ tức thải acid qua nước tiểu nhờ sự phân ly của carbonic acid bởi phân hóa tố Anhydrase.
H2CO3 --> HCO3 + H+
Thận vừa thải H+ vừa tái hấp thụ HCO3. Nhờ vậy mà kiềm/toan được quân bình. Trong trường hợp kiềm quá thì phổi phải bớt thở để giữ lại CO2 hoặc thận giúp phổi bằng cách giữ lại H+ để Acid  tăng bằng kiềm, làm thế nào để pH = 7.4 là được. Như vậy, tương quan giữa tạng Phế - Kim và tạng Thận – Thủy cực kỳ mật thiết trong việc điều hòa Âm (base) Dương (acid), chưa kể tới vấn đề Angiotensin cũng liên quan đến phế và thận.
Trong phần Âm Dương Tân giải, tôi phân định Base là Âm, Acid là Dương. Trong cơ thể, dạ dày có độ acid rất cao, pH = 2, tiểu trường có độ acid thấp, có nghĩa độ base cao pH=8.
Trong vấn đề trị liệu, Hải Thượng bảo: “Mửa nhiều mất dương, tiêu chảy mất âm. Nếu mửa nhiều quá cũng mất âm, tiêu chảy nhiều quá cũng mất dương”. Hải Thượng phát biểu đúng. Mửa nhiều mất acid trong dạ dày (mất dương), mửa nhiều nữa nước từ trong ruột non (thập nhị chỉ tràng) lên dạ dày trào ra đằng miệng làm mất luôn Bicarbonate từ Thập nhị chỉ tràng (đoạn đầu của ruột non) – mất âm.
Tiêu chảy làm mất Bicarbonate – mất âm trong ruột. Tiêu chảy nhiều quá nước và acid từ dạ dày xuống ruột đi ra ngoài, do đó mất luôn cả acid – mất dương. Đời Hải Thượng chưa có Hóa học và Sinh lý học, tuy nhiên Ngài biết được nhờ triệu chứng mất âm hoặc mất dương.

[…]
Tương quan giữa Can và Thận
Gan là nơi vừa chế biến vừa dự trữ thức ăn cho cơ thể lại là nơi phá hủy những chất đã được sử dụng và đã bị cơ thể đào thải như Ammonia (NH3)  được gan tổng hợp để thành Ure qua thận thải ra nước tiểu.
Các loại kích thích tố sau khi sử dụng được gan phá hủy và các loại vi trùng hoặc tế bào chết được tế bào Kupffer của gan tiêu hủy cũng đều theo thận thải ra nước tiểu. Ngoài ra gan và thận cùng nhau cộng tác sản xuất và hoạt hóa vitamin D (quan trọng cho việc tạo thành xương) giúp ruột hấp thụ Calcium cũng như chât Angiotensin là do gan và thận trực tiếp sản xuất và hoạt hóa để giúp huyết áp tăng lúc quá thấp. Tất cả trên chỉ là tương quan giữa tạng Can và tạng Thận (2 quả thận) chưa kể tới Thận Thủy vô hình đối với Tạng Can. Với sức làm việc của Can trong 1 phút = 500 phòng thí nghiệm làm trong 1 giờ thì sự tỏa nhiệt của Can sẽ rất lớn. Nếu không có Thủy hữu hình do Thận Thủy vô hình (Thủy tiên thiên – vỏ thượng thận) làm sao có thể giảm được nhiệt của Can. Đó là tương quan mật thiết giữa Thận Thủy và Can Mộc.
[…]
Tương quan giữa Can và Tâm
Tim là một cái máy bơm máu, hút máu đen về để lược lọc sạch ở phổi và hút máu đỏ từ phổi về tim. Từ đó bơm máu đi nuôi cơ thể. Máu đen được hút về tim phải (tâm nhị phải) qua xoang tĩnh mạch trên (Veina Cava Superior) và xoang tĩnh mạch dưới (Veina Cava Inferior). Xoang tĩnh mạch dưới nhận máu đen nửa phần dưới cơ thể. Máu này 90% là từ ruột chảy vào tĩnh mạch cửa (Portal Vein), trong máu chứa nhiều vi trùng từ ruột, đặc biệt là ruột già. Từ tĩnh mạch cửa, máu chảy vào gan qua hệ thống lọc của gan là những tế bào Kupffer. Tế bào Kupffer là những thực bào (Macrophage) và ẩm bào (Phagocyter) tiêu diệt vi trùng. Nhờ vậy máu về tim không bị nhiễm trùng. Ngoài công việc làm sạch máu, quan trọng hơn, gan là nơi dự trữ máu khoảng 350 ml – 500 ml phòng khi tim không đủ máu để bơm đi nuôi cơ thể trong trường hợp lao tác hoặc bị xuất huyết. Như vậy, sự liên hệ giữa Can Mộc và Tâm Hỏa rất mật thiết trong vấn đề điều hòa lượng máu trong cơ thể.
[…]
Thủy Hỏa Tiên Thiên với Ngũ Hành
Trong ngũ hành chỉ có một hành Thủy là Thận Thủy và hành Hỏa là Tâm Hỏa. Vậy Thủy tiên thiên và Quân Hỏa cùng Tướng Hỏa ở đâu?.
-   Hành Thủy: Tạng Thận không phải là Thủy, không tạo ra Thủy mà chỉ là nơi ra vào của Thủy. RA, khi đào thải, VÀO, khi tái hấp thụ. Và nhờ vào động mạch thận mà ta biết được Thủy hữu hình, từ đó biết được Thủy vô hình – Thủy tiên thiên. Tạng thận biểu thị cho Thủy, Thủy tiên thiên thật sự là Hành Thủy (vỏ tuyến thượng thận)
-   Hành Hỏa: Tạng Tâm không phải là Hỏa, không tạo ra Hỏa. Tuy vậy nhờ vào tạng Tâm mà biết được Hỏa. Tâm đập mạnh là Hỏa vượng; Tâm đập yếu là biết Hỏa yếu. Tâm đập mạnh hay yếu là tùy vào Tướng Hỏa và Quân Hỏa. Tâm biểu thị cho Hỏa. Hỏa tiên thiên (Quân Hỏa – Tuyến giáp và Tướng Hỏa – Tủy tuyến thượng thận) mới thật sự là Hành Hỏa.

Hỏa Tiên Thiên với Vị Thổ và Tỳ Thổ
Đông y bảo Hỏa sinh Thổ. Trong cơ thể có 2 Hỏa là Tâm Hỏa tức Quân Hỏa và Thận Hỏa tức Tướng Hỏa với 2 Thổ là Vị Thổ và Tỳ Thổ. Vậy Hỏa nào sinh Thổ nào? Khi bàn về Ngũ Hành sinh khắc tôi đã nói đến Tương Sinh là Thuận chuyển, Tương khắc là cực bất cập (Âm khắc Dương) và cực thái quá (Dương khắc Âm). Trong khi xét về Thuận chuyển, chẳng những Thuận chuyển mà còn tương quan mật thiết trong tác động hỗ tương như tôi đã bàn tới tương quan giữa các tạng như Tỳ và Phế, Phế và Thận…
Riêng Hỏa của Tâm Thận và Thổ của Tỳ Vị thì Đông y bảo Tâm Hỏa sinh Vị Thổ, Thận Hỏa sinh Tỳ Thổ. Nếu hiểu sinh theo nghĩa kích thích, xúc tác, hoặc hỗ tương thì lời phát biểu của Đông y đúng.
Trong thiên Thủy Hỏa, lúc bàn về Hỏa tôi khẳng định Tâm Hỏa hoặc Quân Hỏa là Hỏa của Tuyến Giáp trạng. Hỏa này giúp cơ thể biến dưỡng căn bản trong lúc nghỉ ngơi cũng như trong lúc ngủ. Trong lúc nghỉ ngơi hoặc ngủ thì tim vẫn đập, phổi vẫn thở, dạ dạy (vị) và ruột vẫn co bóp, vẫn làm việc. Công việc đó phải nhờ Thyroxine tức Hỏa của Tuyến giáp trạng giúp đỡ mới thực hiện được. Tâm Hỏa sinh Vị Thổ là như vậy.
Còn Tỳ là Tụy tạng chỉ tiết nhiều phân hóa tố (Enzyme) và kích thích tố (Hormone) khi thức đặc biệt lúc ăn uống. Ăn uống, làm việc và suy tư,.vv… đều là những hình thức chiến đấu. Lúc chiến đấu thì Tướng Hỏa làm việc mạnh mẽ để tiết chất Adrenalin, giúp sức cho cơ thể có nhiều năng lượng. Nhờ năng lượng đó Tụy tạng tiết được kích thích tố và phân hóa tố. Thận Hỏa hoặc Tướng Hỏa sinh Tỳ Thổ trong ý nghĩa đó.
 
Tương quan giữa các Phủ.
Tạng Tỳ tương quan với Tạng Phế thì phủ Vị tương quan với phủ Đại Trường. Vị không có Đại Trường thì lấy gì để truyền tống cặn bã. Tạng Phế tương quan với Tạng Thận thì thì phủ Đại Trường tương quan với phủ Bàng Quang, vì hai bên hỗ tương nhau truyền tống chất dơ bẩn ra ngoài, một bên thể lỏng và một bên thể đặc. Tạng Tâm tương quan với tạng Can thì phủ Đởm tương quan với phủ Tiểu Trường. Mật tiết vào Tiểu trường để tiêu hóa thức ăn, đặc biệt mỡ và được tái hấp thụ qua ruột tạo thành chu kỳ gan ruột.
Tạng Tâm thuộc Hỏa có phủ Tiểu Trường, Tỳ Thổ có phủ Vị… Do đó, Vị tương quan với Tiểu Trường (Dạ dày và Ruột non)






Logged
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
Trả lời #21 vào lúc: 16-06-2019, 05:18 PM

Bongsen,

Vì thấy có nói về Kinh Dịch, nên mạn phép có vài ý kiến liên quan đến tu tập, hơn là nghề thuốc..

Trong Kinh Dịch có Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái và sau này người ta còn tìm ra Trung Thiên Đồ (bị giấu, thất truyền) có 4 quẻ có uy lực nằm giữa đồ hình này gọi là Trung Đạo,  theo thứ tự như sau:

- Quẻ Kiền/Càn tượng là Trời (3 vạch liền nét), thuần dương, sự mạnh mẽ, dứt khoát, chân lý... tui cho rằng ứng với Ngài Tỳ Lô Giá Na (cung cách có lẽ giống trường phái Thầy Tibu chùa mình) 😄.

- Quẻ Khôn tượng là Đất (3 vạch đứt), thuần âm, sự thụ động hoàn toàn, nhìn bề ngoài vậy nhưng uy lực của nó chẳng kém quẻ Càn... trường phái dùng Tha Lực, Ngài A Di Đà 🤔

- Quẻ Ly (hai vạch liền trên và dưới, vạch giữa rỗng) tượng là Hoả, Ánh Sáng, Con gái nhỏ vui vẻ... Tương ứng Luân Xa Ajna và quán ra đề mục.

- Và Quẻ Khảm (hai vạch đứt kẹp vạch liền ở giữa) tượng Nước, Thận, Đan Điền...

Bốn quẻ này nằm giữa Trung Thiên Bát Quái Đồ, hàm ý Trung Đạo là con đường hiệu quả nhất. Bậc quân tử giữ được chữ Trung, thánh hiền giữ chữ Trung là ý này...

Bàn về cách làm để quay về Chân Lý xét theo Kinh Dịch: hoặc là đi từ thuần Dương (quẻ Càn) đi đến giới hạn (ví dụ: pháp môn Thiền, Karma Yoga...); Hoặc là đi từ thuần Âm (quẻ Khôn) đi tới giới hạn (pháp môn dùng Tha Lực, ví dụ Tịnh Độ, Cầu nguyện Công giáo...); hoặc là lấy Khảm điền Ly (trường phái Đạo Gia và Mật Tông) để âm dương gặp nhau từng vạch một theo thứ tự nhi tiến...


Thuần Dương hay Thuần Âm đều rất khó, do đó mới có mô hình theo nguyên lý Thủy Hoả, lấy Khảm điền Ly (vạch liền và đứt gặp nhau từng cặp, kiểu Đạo Gia  và Mật Tông)...

Tóm lại, xét về Kinh Dịch và pháp tu:  Thiền tương ứng quẻ Càn (trực chỉ tâm); Tịnh tương ứng quẻ Khôn (tha lực); và Mật lấy Khảm điền Ly (tùy thời mà cho âm dương gặp nhau)...

Câu hỏi:
1. Thuần Càn hay thuần Khôn đều rất khó, vì quá thuần nhất. Và vì một đàng thì cực động, một đàng cực tĩnh. Nếu dùng kết hợp Càn và Khôn theo cách Khảm Điền Lý cho âm dương gặp nhau thì sao?!? (chưa thấy sách vở nào nói cái này). Vì là sử dụng hai quẻ uy lực mạnh nhất, thuần nhất nhất, có bản sắc nghịch nhau 100% này, cho nên sẽ rất khó. Nhưng nếu làm được thì sẽ rất kinh khủng 😅

2. Và HoaSenTrenDa úynh kiểu gì, nếu xét về góc nhìn Kinh Dịch?! theo tui phần lớn ứng với cung cách của quẻ Càn, tức là hành động không ngừng nghỉ (Karma Yoga)...

3. Nhìn riêng về phương pháp Niệm Phật quán Chấm Đỏ - Thiền Tịnh Mật kết hợp. Nếu nhìn dưới góc độ  Kinh Dịch, thì nó là mô hình Thiền (quẻ Càn) + Tịnh (quẻ Khôn) + Mật (Khảm Ly) kết hợp. Trong Trung Thiên Bát Quái Đồ, con đường Trung Đạo ở giữa là 4 quẻ Càn-Khôn-Ly-Khảm, tất cả đều có đủ... Do đó mà pháp môn này kết quả quá nhanh chóng, áp dụng được cho mọi tầng lớp, nó quá ư là Perfect mấy ông ơi...

Hihi... Không lẽ tự mình khen mình hoài 😆?!? mà ai có ý kiến gì không?!?
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #22 vào lúc: 16-06-2019, 07:49 PM

Bongsen,

Vì thấy có nói về Kinh Dịch, nên mạn phép có vài ý kiến liên quan đến tu tập, hơn là nghề thuốc..

Trong Kinh Dịch có Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái và sau này người ta còn tìm ra Trung Thiên Đồ (bị giấu, thất truyền) có 4 quẻ có uy lực nằm giữa đồ hình này gọi là Trung Đạo,  theo thứ tự như sau:

- Quẻ Kiền/Càn tượng là Trời (3 vạch liền nét), thuần dương, sự mạnh mẽ, dứt khoát, chân lý... tui cho rằng ứng với Ngài Tỳ Lô Giá Na (cung cách có lẽ giống trường phái Thầy Tibu chùa mình) 😄.

- Quẻ Khôn tượng là Đất (3 vạch đứt), thuần âm, sự thụ động hoàn toàn, nhìn bề ngoài vậy nhưng uy lực của nó chẳng kém quẻ Càn... trường phái dùng Tha Lực, Ngài A Di Đà 🤔

- Quẻ Ly (hai vạch liền trên và dưới, vạch giữa rỗng) tượng là Hoả, Ánh Sáng, Con gái nhỏ vui vẻ... Tương ứng Luân Xa Ajna và quán ra đề mục.

- Và Quẻ Khảm (hai vạch đứt kẹp vạch liền ở giữa) tượng Nước, Thận, Đan Điền...

Bốn quẻ này nằm giữa Trung Thiên Bát Quái Đồ, hàm ý Trung Đạo là con đường hiệu quả nhất. Bậc quân tử giữ được chữ Trung, thánh hiền giữ chữ Trung là ý này...

Bàn về cách làm để quay về Chân Lý xét theo Kinh Dịch: hoặc là đi từ thuần Dương (quẻ Càn) đi đến giới hạn (ví dụ: pháp môn Thiền, Karma Yoga...); Hoặc là đi từ thuần Âm (quẻ Khôn) đi tới giới hạn (pháp môn dùng Tha Lực, ví dụ Tịnh Độ, Cầu nguyện Công giáo...); hoặc là lấy Khảm điền Ly (trường phái Đạo Gia và Mật Tông) để âm dương gặp nhau từng vạch một theo thứ tự nhi tiến...


Thuần Dương hay Thuần Âm đều rất khó, do đó mới có mô hình theo nguyên lý Thủy Hoả, lấy Khảm điền Ly (vạch liền và đứt gặp nhau từng cặp, kiểu Đạo Gia  và Mật Tông)...

Tóm lại, xét về Kinh Dịch và pháp tu:  Thiền tương ứng quẻ Càn (trực chỉ tâm); Tịnh tương ứng quẻ Khôn (tha lực); và Mật lấy Khảm điền Ly (tùy thời mà cho âm dương gặp nhau)...

Câu hỏi:
1. Thuần Càn hay thuần Khôn đều rất khó, vì quá thuần nhất. Và vì một đàng thì cực động, một đàng cực tĩnh. Nếu dùng kết hợp Càn và Khôn theo cách Khảm Điền Lý cho âm dương gặp nhau thì sao?!? (chưa thấy sách vở nào nói cái này). Vì là sử dụng hai quẻ uy lực mạnh nhất, thuần nhất nhất, có bản sắc nghịch nhau 100% này, cho nên sẽ rất khó. Nhưng nếu làm được thì sẽ rất kinh khủng 😅

2. Và HoaSenTrenDa úynh kiểu gì, nếu xét về góc nhìn Kinh Dịch?! theo tui phần lớn ứng với cung cách của quẻ Càn, tức là hành động không ngừng nghỉ (Karma Yoga)...

3. Nhìn riêng về phương pháp Niệm Phật quán Chấm Đỏ - Thiền Tịnh Mật kết hợp. Nếu nhìn dưới góc độ  Kinh Dịch, thì nó là mô hình Thiền (quẻ Càn) + Tịnh (quẻ Khôn) + Mật (Khảm Ly) kết hợp. Trong Trung Thiên Bát Quái Đồ, con đường Trung Đạo ở giữa là 4 quẻ Càn-Khôn-Ly-Khảm, tất cả đều có đủ... Do đó mà pháp môn này kết quả quá nhanh chóng, áp dụng được cho mọi tầng lớp, nó quá ư là Perfect mấy ông ơi...

Hihi... Không lẽ tự mình khen mình hoài 😆?!? mà ai có ý kiến gì không?!?


Kinh Dịch, hay Âm Dương, Ngũ Hành.. cũng chỉ là phương tiện cho chúng ta biết để chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn kia , không bao giờ là 1 cái rụp được, sự chuyển hóa nó đòi hỏi có sự trải qua của các giai đoạn...(giai đoạn này là sự chuẩn bị của giai đoạn kia,...)

Cũng vậy, BS nhớ lại câu nói của chú Phước Nhỏ (hello Chú PN): "Chú lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị..."
BS giờ mới hiểu ra, lúc nào cũng chuẩn bị cho thật tốt.. thì bước tiếp theo sẽ là phép màu sẽ xảy ra...
Cũng như nhiều lần Thầy Tibu nói: "Không có mì ăn liền" trong vấn đề tu tập... Grin
..

Nếu nhắm mắt mà tưởng tượng cái mà mình chưa bao giờ nhìn thấy... sẽ khó .. em gọi là nóng vội, thiếu sự chuẩn bị...
Nhưng nhắm mắt lại đi tìm cái hình (ví dụ cái hình ông Phật đang treo ở đâu đó trên tường nhà của mình)... thì theo em đây cũng là 1 quá trình chuẩn bị.. Con mắt của mình nó cũng đang trong giai đoạn (Động - đi tìm, chưa chịu đứng yên)... nó tìm ra rồi, nó sẽ rõ (Tịnh, đứng yên)...


Duyên nó tới, em cũng chỉ mới phát hiện ra cái điểm này.. Cheesy Grin


 Grin Grin Grin
Logged
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
Trả lời #23 vào lúc: 17-06-2019, 12:22 AM

Bongsen,

64 quẻ Kinh Dịch  đại diện cho giai đoạn mà ông nói, hay chu trình của vạn vật, vũ trụ, quỷ thần... thì tại sao bắt đầu quẻ 1 là quẻ Càn (thuần dương, trời, tức Ăn Ngay Nói Thật), tiếp theo đó là  quẻ Khôn (thuần âm, địa, ứng với tính chất Có Hiếu)... rồi quẻ 64 cuối lại là Thủy Hoả Vị Tế (làm hoài mà chưa xong 😅)... Thì có phải là Người Quân Tử và Bồ Tát Đạo hay  không?!?

Hoasentrenda dưới góc nhìn Dịch Lý 🤩!

Bổ sung thêm của ông Phước Nhỏ: "chú lúc nào cũng trong tư thế chuẩn bị" - điều này tương đương với Thu Thúc của Giới!
Logged
bongsen
Khách
Người gởi: bongsen Khách
Trả lời #24 vào lúc: 17-06-2019, 07:38 PM

DƯỠNG SINH

Con người lúc sinh ra không bị khuyết tật, hồng hào, khỏe mạnh, thế là Tiên Thiên tốt. Từ đó được trưởng thành khỏe mạnh hay không là tùy thuộc vào môi trường sống và cách nuôi dưỡng của Hậu Thiên. Nuôi dưỡng để sống mạnh gọi là dưỡng sinh. Dưỡng sinh có 2 phần: thể xác và tinh thần.
Thể xác gồm ăn uống, hít thở, thức ngủ, luyện tập và bài tiết.
Về ăn:
Ăn rất quan trọng cho sự sống của cơ thể. Đông y bảo: “Bệnh tòng khẩu nhập – bệnh theo miệng vào”. Đúng vậy, ăn uống không thể không cẩn thận. Tùy theo tập tục địa phương về cách nấu nướng và sở thích của mỗi cá nhân và sự lựa chọn thức ăn cho hợp khẩu vị, hợp với thể trạng (để khỏi bị dị ứng hoặc dễ tiêu hóa v.v…).
Con người có ba loại thức ăn chính: đường (như bột mì, bột gạo,…), thịt (protein) và mỡ (lipit). Ngoài ra có rau cỏ, trái cây vừa là chất độn vừa chứa nhiều sinh tố (vitamin). Với ba thức ăn đó con người phải ăn đầy đủ, vừa phải, không nhiều quá, không ít quá. Theo ‘chỉ tiêu’ khoa học ngày nay thì biến dưỡng căn bản (BDCB) của một người vào khoảng 2000 calories, mỡ 9 calories, đường 4 calories. Như vậy một ngày BDCB của một người chỉ cần 75 gram thịt, 88.8 gram mỡ và 255 gram đường. Biến dưỡng căn bản là biến dưỡng lúc nghỉ ngơi, lúc làm việc thể xác hoặc tinh thần thì biến dưỡng phải cao hơn. Từ đó để tăng hoặc giảm thức ăn cho hợp với sức khỏe. Nên nhớ ba loại thức ăn trên không thể thay thế cho nhau được. Khi nấu thức ăn chúng ta dung đồ gia vị như mặn, đắng, cay, chua và ngọt, năm vị đó gọi là ngũ vị. Đông y rất chú trọng vấn đề gia vị vì ngoài việc tăng hương vị cho thức ăn, đồ gia vị còn có tác dụng như những dược liệu giúp ích  cho tỳ vị tiêu hóa thực phẩm như: quế, hồi, tiêu là ấm cơ thể nói chung và bộ tiêu hóa nói riêng; thảo quả, đinh hương để thông  khí kể cả trần bì; hành, sả, để toát mồ hôi và lợi tiểu; gừng, riềng tẩy uế khí và chống nôn; ớt để kích thích vị giác; nghệ để thông túi mật đặc biệt chống dị ứng thức ăn; tỏi sống để sát trùng và giảm chất mỡ trong máu .v.v…Tất cả đều dùng vừa đủ, nhiều quá là có hại.
Về uống:
Uống cũng như ăn. Ai cũng thích khoái khẩu, nhưng thỉnh thoảng thôi, ngày nào cũng khoái khẩu là có hại. Rượu, cà phê là những thức uống kích thích, phần nhiều đều độc nếu quá lạm dụng. Rượu có hại cho gan, cà phê nhiều có hại cho thần kinh và dạ dày.
Hít thở:
Bảo rằng bệnh tòng khẩu nhập chưa đủ, phải them Tòng tỵ nhập (bệnh theo lỗ mũi) nữa. Hít thở là hô hấp, phải ở nơi thoáng khí và không khí trong lành. Không khí bị ô nhiễm làm hại phổi như bụi bậm, khói, mùi hôi thối hoặc tanh tưởi đều làm hại cho sức khỏe, đặc biệt là hại phổi. Chúng ta cảm nhiễm về thời tiết phần nhiều đều bắt đầu từ phổi. Mùa xuân nhiều phấn hoa làm cho ta dễ bị dị ứng, ho hen. Mùa hạ nóng nực, mùa thu khô ráo, mùa đông lạnh lẽo đều ảnh hưởng đến phổi. Từ phổi dẫn đến các cơ quan khác không bao xa vì rằng phổi yếu không thở đủ dưỡng khí thì cơ thể bị bệnh. Thuốc lào, thuốc lá, cần sa đều độc cho phổi. Thật ra những gì có khói hít vào đều hại phổi.
Thức ngủ và làm việc:
Luôn luôn phải điều độ, phải tập cho đúng giờ giấc để tạo thành thói quen tốt. Ngủ ít nhất một ngày phải được 7 tiếng. Làm việc nặng hoặc nhẹ, trí óc hoặc chân tay thì phải mất khoảng 8 tiếng mỗi ngày. Còn lại 9 tiếng thuộc tự nguyện hoặc đọc sách để tăng kiến thức, hoặc viết lách, trồng cây, cắt cỏ, nấu ăn v.v…
Tập luyện:
Thể dục thể thao là điểu tối cần. Dễ dàng nhất là đi bộ hoặc bơi lội mỗi ngày khoảng 30 phút đến 1 tiếng đồng  hồ. Được như vậy máu chạy đều, hít thở mạnh mẽ làm cho cơ thể tráng kiện.
Bài tiết:
Ăn uống và hô hấp (hít thở) mục đích để hấp thụ thức ăn và dưỡng khí, cùng một lúc với sự đào thải chất cặn bã qua đại tràng; đường tiểu và thán khí qua đường phổi, tất cả gọi là bài tiết trừ mồ hôi và hô hấp là tự động.
Mồ hôi ra hằng ngày đặc biệt khi nóng bức hoặc lao động như làm việc chân tay hay tập thể dục v.v… thì mồ hôi ra nhiều để tỏa nhiệt và đào thải chất cặn bã như ure, acid lactic và các chất muối khoáng khác.
Hô hấp để hấp thụ dưỡng khí, thải thán khí.
Riêng tiểu tiện và đại tiện là do phản xạ tự động kích thích tạo nhu cầu bài tiết vừa do ý chí quyết định bài tiết hay không. Nếu không gọi là nín bài tiết. Hệ thần kinh kích thích đại tiểu tiện thuộc hệ đối giao cảm xuất phát từ xương bàn tọa (cuối cùng của cột sống). Vì cũng chịu ảnh hưởng của đối giao cảm nên khi bị kích thích tiểu tiện đi một lần với đại tiện. Nín được đại tiểu tiện là nhờ thần kinh Pudic. Nín đại tiểu tiện trừ trường hợp đặc biệt là phản với dưỡng sinh. Lúc bị kích thích là nên bài tiết ngay. Đại tiểu tiện, đặc biệt đại tiện do thói quen về thời gian, có người vào buổi sang, có người vào buổi tối v.v… Tuy nhiên sau ăn sáng là tốt nhất. Phải tạo thói quen như vậy thể xác mới được khỏe mạnh. Nín đại tiện nhiều lần sẽ trở nên bệnh táo bón. Nín đại tiện các độc tố sẽ bị hấp thụ qua ruột vào máu làm chúng ta dễ bị đau đầu, có khi chóng mặt và buồn nôn nữa. Muốn khỏi táo bón trước hết phải tập đại tiện ít nhất một ngày một lần và phải đúng thời gian ( khoảng 30 phút đến 1 giờ sau bữa ăn sáng), phải ăn nhiều chất xơ như rau cải, trái cây, khoai lang, khoai tây là những thức ăn giữ nước và xốp làm cho ruột dễ co bóp để tống chất cặn bã ra ngoài. Chúng ta gọi đồ ăn đó là những chất nhuận trường. Có khi người ta còn dùng cả dầu vừng và các loại hạt chứa dầu như đậu phụng và các loại hạt dẻ vì chúng có tính cách trơn ruột. Kiêng ăn những loại có vị chát như ổi, sim móc v.v… vì chúng chứa chất tannin tạo nên táo bón.
Với nơi ăn chốn ở ngăn nắp sạch sẽ và một đời sống giản dị điều độ trên mọi lãnh vực thì cơ thể phải khỏe mạnh.
Riêng về sự thay đổi khí hậu bốn mùa rất quan trọng trong đời sống. Mùa xuân vạn vật thăng phát con người cũng thăng phát theo, nên ngủ sớm dậy sớm. Mùa hạ vạn vật nảy nở con người nảy nở theo, nên ngủ sớm dậy sớm. Xuân hạ là hai mùa đầy dương khí cho nên con người phải hoạt động để hứng được nhiều dương khí. Mùa thu dương khí bắt đầu giảm dần, vạn vật thu rút vào trong và sinh khí con người cũng vậy cho nên con người sống nội tâm hơn. Phần nhiều các thi nhân đều cảm xúc bởi cảnh thu để có “Thu hứng, Thu cảm và Thu điếu v.v…”, mùa thu cũng nên ngủ sớm dậy sớm để hưởng được cái thanh tịnh của tạo vật. Riêng mùa đông lạnh lẽo mọi vật đều tìm nơi trú ẩn, con người cũng phải trú ẩn để được ấm áp, để tàng trữ được dương khí, nên ngủ sớm dậy muộn. Bốn mùa đều có cách sống cho phù hợp, luôn luôn không để cơ thể lạnh quá hoặc nóng quá, lạnh quá quá thì hại dương khí, nóng quá thì hại âm khí. Đối với Tây y nóng quá hoặc lạnh quá, lo nghĩ quá, buồn rầu quá v.v… đều làm giảm tính miễn nhiễm của cơ thể. Bốn mùa khí hậu khác nhau phải sống theo quy luật Xuân hành, Hạ trưởng, Thu thâu và Đông tàng. Xuân Hạ nên ban phát, Thu Đông nên thu vén và mùa nào cũng vậy con người phải hưởng đủ ánh sáng mặt trời thì cơ thể mới tráng kiện được.
Về sắc dục:
Đói tìm ăn, khát tìm uống, lạnh tìm nóng, nóng tìm mát, chống trả hoặc trốn chạy kẻ thù đều thuộc bản năng sinh tồn. Tuy nhiên không có bản năng nào mạnh hơn sinh dục. Có lẻ nhờ vậy mà các loại động vật đời đời vẫn tồn tại mãi trên trái đất này. Những loài động vật như chim muông thì thời kì sinh dục có từng mùa. Có vài loại không tùy mùa nhưng tất cả đều do nhu cầu sinh lý vô ý thức.
Riêng con người thì vừa do nhu cầu sinh lý vừa do tâm lý (ý thức) tạo nên, thêm nữa con người bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều no đủ, vì lẽ đó con người với ý thức tìm đủ cách để thỏa mãn sắc dục dẫn đến chỗ trác táng rồi non yếu. Mấy ông vua nhiều cung tần mỹ nữ đều chết yếu. Trác táng về sắc dục làm tinh khí tiêu hao nhiều dẫn tới thủy hỏa khí huyết suy kiệt và rất khó bổ dưỡng bằng mọi hình thức dược liệu. Vì lẽ đó trong dưỡng sinh con người phải điều độ về sắc dục. Tuổi trẻ thì “thất nhật độ y sư bất đáo gia”, 40 tuổi trở đi càng giảm sắc dục càng tốt để bảo vệ được tinh khí, từ đó bảo vệ được thần minh.
Tất cả trên là dưỡng sinh về thể xác tuy khó mà dễ. Dưỡng sinh về mặt tinh thần càng khó hơn, khó hơn vạn lần. Con người không ai tránh khỏi ‘Thất tình’, không ai tránh khỏi cái cảnh ‘Đắc thất’ và ‘Thành bại’. Được thì mừng, mất thì buồn, thành thì vui, bại thì giận v.v… Hỷ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục quá độ đều hại đến thuyết dưỡng sinh. Vì lẽ đó đời sống tinh thần của con người phải được hàm dưỡng lâu, may mắn thì được giáo dục từ thiếu thời hoặc qua sách vở về gương sáng của các bậc danh nhân hoặc tự kinh nghiệm để đạt lý. Có như vậy mới có thể mỉm cười trước sự thành bại đắc thất; có như vậy mới kềm chế được “Thất Tình’ con người trở nên ung dung tự tại sống một đời sống đạm bạc giản dị và lương thiện. Làm thì làm hết mình không cần danh không cần lợi. Danh lợi không vướng vào lòng, thử hỏi thuật dưỡng sinh nào hơn?
Tính thích nghi (Adaptation)
Chúng ta, người Việt Nam ở Nam bán cầu thuộc về nhiệt đới, tới ở các nước Âu Mỹ, Bắc bán cầu thuộc ôn đới. Sự khác biệt quá lớn lao về đời sống tinh thần cũng như vật chất. Nói cách khác, hai nền văn hóa quá cách biệt nhau, chúng ta phải thích nghi có nghĩa là phải hội nhập với nền văn hóa mới nếu không chúng ta sẽ bị đào thải. Thích nghi với nền văn hóa tức là thích nghi với phong tục tập quán của quê hương mới, kể cả cách ăn uống, đặc biệt những thứ ảnh hưởng đến sinh lý.
Nước ta khí hậu Nam Bắc tuy khác nhau nhưng phần nhiều là nóng, do đó chúng ta hay toát mồ hôi để tỏa nhiệt. Những thức ăn rau quả phần lớn là loại rau tỏa nhiệt làm toát mồ hôi như tía tô, kinh giới, húng cây (bạc hà), húng lủi, ớt, gừng v.v…Ngoài ra còn có các loại rau đậu có tính hàn lương như đậu xanh, rau muống ăn cho mát. Với thổ nghi nước ta ăn như thế thì được, nhưng với thổ nghi Âu Mỹ ăn nhiều rau thơm càng toát nhiều mồ hôi; mồ hôi mất là thủy mất không giữ được hỏa rồi hỏa sẽ yếu đi, thủy hỏa đã suy thì khí huyết không vượng lên được. Nhiều người Việt ở Âu Mỹ gầy yếu xanh xao có lẽ vì vậy. Tôi thường uống trà hoa cúc, uống liền mấy ngày như vậy thì chóng mặt và hay hụt hơi, tôi biết mùi thơm của rau quả hoặc của hoa rất hao khí, có lẻ mùi thơm của hoa cỏ chứa nhiều thán khí (CO2) chăng? Riêng đối với rau muống, đậu xanh, hoặc giá đậu, mùa hè ăn nhiều vô hại, mùa đông chỉ nên ăn vừa phải thôi.
Ở Việt Nam, đặc biệt ở vùng quê nhà nào cũng có lu tương vại cà, vại dưa muối và hũ mắm, không có những thứ đó không thành người Việt, đặc biệt ở quê hương tôi (Nghệ An) bữa cơm dẫu giàu thit cá mà không có cà dưa là không được. Ăn mặn như vậy mà vẫn mạnh, huyết áp vẫn bình thường vì sao? Vì cày bừa, chạy nhảy trời nắng mồ hôi ra đầm đìa, muối trong dưa trong cà trong mắm đều theo mồ hôi ra hết. Mồi hôi ra nhiều bao nhiêu phải uống nước nhiều bấy nhiêu để thay thế. Lý do ăn mặn cần thiết để giữ nước. Người Nghi Lộc, Nghệ An thường từng cặp vác cưa đi cưa gỗ để lấy tiền, họ cưa suốt ngày giữa nắng mồ hôi ra nhễ nhại, người họ lực lưỡng ăn cơm nhiều, dưa và cà muối bao nhiêu cũng hết cho nên có câu:
“Thợ cưa ăn dưa nứt bụng
Uống nước thì thụng bể bụng thơ cưa”.

Nay ta ở Âu Mỹ mùa lạnh có máy ấm, mùa nóng có máy lạnh, xe hơi nay đủ tiện nghi, ăn uống cái gì cũng có đầy đủ. Nếu ăn mà không làm gì để đào thải muối qua mồ hôi thì muối ở đâu nước ở đó. Nước nhiều trong máu dẫn đến huyết áp cao, dẫn tới tai biến mạch máu não, tim, thận v.v… và đương nhiên khó sống hoặc tàn tật. Cho nên ăn uống không thể không cần thận.
Nói chung nên ăn những đồ ăn dễ tiêu hóa, ít mỡ, ít chiên xào và phải hợp với thời tiết như Xuân hạ khí hậu nóng ấm nên ăn nhiều rau trái, Thu Đông lạnh lẽo nên ăn nhiều thịt để lấy độ ấm. Cách nấu nướng theo tôi nên luộc hoặc hấp là tốt nhất vì ít gia vị.

---
[...]
TỨ ĐẠI MẠCH

Tứ đại mạch gồm: Phù, Trầm, Trì, Sác
Phù, Trầm thuộc bộ vị sâu của mạch. Phù là mạch nổi dưới da (khinh án) thuộc biểu, thuộc lục phủ. Trầm là mạch nằm sâu dưới thịt (trung án) có khi gần xương (trọng án), thuộc lý, thuộc ngũ tạng.
Trì, Sác thuộc nhịp độ của mạch (tần số mạch). Trì là chậm, mỗi tức (thở ra và hít vào) mạch nhảy ba nhịp, chủ tích tụ hoặc lạnh. Sác là nhanh, mỗi tức, mạch nhảy 5 – 6 nhịp, chủ nhiệt, hoặc mụt nhọt hoặc xuất huyết.
Với phù, trầm, trì, sác phải biết mạch hữu lực hay vô lực. Hữu lực là ấn tay mạnh tới trung án và trọng án vẫn thấy mạch. Vô lực thì ấn tay đến trung án không còn mạch. […]
Khi đã biết Phù, Trì,Trầm, Sác và vô lực hay hữu lực, để định bệnh, phải biết cơ thể chia làm tam tiêu: thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Thượng tiêu từ yết hầu đến hoành cách mô gồm đầu óc, tai mắt, và tim phổi. Trung tiêu từ hoành cách mô tới rốn, gồm can (gan), đởm (túi mật), tỳ (tụy tạng), vị (dạ dày), một phần ruột non (thập nhị chỉ tràng) và một phần ruột già (hoành kết tràng). Hạ tiêu từ rốn đến hốc chậu gồm thận, bàng quang, ruột già xuống (hàng kết tràng) và hai chân.
-   Muốn biết bệnh thượng tiêu thì bắt mạch lưỡng thốn (tả thốn và hữu thốn).
-   Muốn biết bệnh trung tiêu thì bắt mạch lưỡng quan (tả quan và hữu quan).
-   Muốn biết bệnh hạ tiêu thì bắt mạch lưỡng xích (tả xích và hữu xích).
Bàn về mạch phù sác và hữu lực (phù thuộc biểu):
-   Cả ba bộ thốn quan xích hai bên trái phải đều phù sác hữu lực (hữu lực như mạch hồng, đại, hoạt, khẩn, khâu v.v…) là bệnh rất nóng (phù thuộc biểu, thuộc phủ).
-   Tả thốn phù sác là tâm nhiệt, miệng lưỡi nổi nhọt, tiểu nóng vì tiểu trường nóng.
-   Hữu thốn phù sác là phế nhiệt, ho hen, đau đầu, nghẹt mũi, đại trường nóng, táo bón.
-   Tả quan phù sác là can đởm nhiệt, đau đầu, đau mắt, đắng miệng.
-   Hữu quan phù sác, tỳ vị nhiệt, ăn mau tiêu, hoặc ăn không được vì miệng lưỡi nổi mụt ăn vào bị rát, táo bón.
-   Tả xích phù sác, thận thủy khô cạn, người nóng, tiểu nóng, bàng quang nóng.
-   Hữu xích  phù sác là thận hỏa quá vượng, tam tiêu nóng, táo bón.
Tả xích phù sác cũng đã đủ chứng tỏ hỏa quá vượng.
Riêng phù sác mà vô lực thì thường là ngoài giả nhiệt, trong chân hàn.
Bàn về mạch phù trì hữu lực:
Đã là trì thì thuộc âm mạch. Tuy nhiên, hữu lực là dương. Hữu lực mà lại trì là dương bị âm lấn. Như vậy trì mà vô lực là dương hư đã đành, trì mà hữu lực thì dương tuy chưa hư lắm nhưng vẫn yếu.
-   Ba bộ hai bên trái phải đều phù trì là do phong (phù) hàn nhập biểu. Tuy vậy chính khí cũng đã hư yếu, hàn tà mới nhập biểu. Trị liệu phải tán tà ở biểu, nhiều khi phải ôn bổ trong lý để chính khí mạnh lên.
-   Tả thốn phù trì: Tiểu trường lạnh, tâm hàn, đau bụng hay ợ hơi.
-   Hữu thốn phù trì: phổi lạnh, đàm kết, ăn không tiêu, đại trường lạnh, tiêu chảy.
-   Tả quan phù trì: Can đởm đều lạnh, hàn tà vào đởm làm cho nóng rét…
-   Hữu quan phù trì: Tỳ vị lạnh ăn không tiêu, nôn ọe, tiêu chảy…
-   Tả xích phù trì: Bàng quang lạnh, thận lạnh, đi tiểu luôn, ù tai..
-   Hữu xích phù trì: Mệnh môn hỏa hàn lãnh, tam tiêu hàn lãnh.
Tất cả mọi mạch hoặc cả ba bộ mạch hai bên, hoặc chỉ có một bộ phù trì – cho dầu phù thuộc biểu (lục phủ) thì lý (tạng) cũng đã hàn.
Riêng phù trì vô lực thì nội ngoại đều hàn lãnh, trị liệu phải bổ dương thật mạnh.
Bàn về mạch trầm sác hữu lực:
Trầm thuộc âm phận, thuộc lý. Sác hữu lực là nhiệt. Trầm sác hữu lực là nội nhiệt.
-   Ba bộ hai bên trái phải đều trầm sác hữu lực là nội nhiệt, rất nhiệt.
-   Tả thốn mạch trầm sác: tâm cực nhiệt, nói mê, miệng lưỡi nổi mụt, mặt đỏ, nóng bứt rứt. Nên uống tả tâm tán.
-   Hữu thốn trầm sác: Phế nhiệt, đàm uất, ho hen nóng sốt. Phế kim bị tâm hỏa khắc.
-   Tả quan trầm sác: can nhiệt vì uất, giận dữ, đau đầu, mắt mờ…
-   Hữu quan mạch trầm sác: Tỳ nóng, có tích tụ, miệng lưỡi hôi, chảy máu răng, có khi nôn ọe…
-   Tả xích mạch trầm sách: Thủy suy hỏa vượng, có thể ứ huyết, đau gân, thủy khô.
-   Hữu xích trầm sác: hỏa quá vượng, đái đỏ, táo bón, người khô khan, luôn luôn cảm thấy nóng.
(Trầm sác vô lực thường là hư nhiệt. Đã vô lực là dương hư cho nên trong ngoài đều lạnh. Trầm sác vô lực như trầm tế mà sác; trầm nhuyễn sác).
Bàn về mạch trầm trì:
Như đã nói, trầm thuộc lý; trì do hàn hay do tắc nghẽn (khí không thông). Nói chung, trầm trì chứng tỏ dương không thăng, dương bị đè nén. Trầm trì có trầm trì hữu lực và trầm trì vô lực.
-   Trầm trì hữu lực: tả thốn hai bên trái phải đều trầm trì hữu lực, cơ thể lạnh, hoặc chóng mặt, hoặc nằm không muốn dậy. Trì do tim đập chậm, máu không đủ vận chuyển. Trầm trì hữu lực chứng tỏ dương tuy bị đè nén nhưng vẫn còn dương. Trị liệu chỉ cần thăng dương như dùng bài Bổ Trung Ích Khí là đủ (có khi tôi chỉ cho uống ly cà phê để tim đập nhanh lên là đủ).
-   Tả thốn mạch trầm trì: thượng tiêu hàn lãnh, dương khí không đủ, tâm thần mỏi mệt.
-   Hữu thốn mạch trầm trì: đàm ẩm, phế lạnh, ho hen. Trị liệu, bất cứ thốn nào hoặc cả hai thốn đều trầm trì chứng tỏ dương khí hạ hãm, thêm nứa thốn thuộc dương phận, nên dùng Bổ Trung Ích Khí, gia thêm Phụ tử; nếu không hiệu quả thì phải dùng Lý Trung Thang….
-   Tả quan mạch trầm trì hữu lực: can khí uất, hàn lãnh, ăn không tiêu, cơ thể lạnh, có khi đau sán khí. Trị liệu có thể dùng Tứ Vật bỏ Bạch thược, thêm Quế, Phụ và bội Đương Quy. Nếu không hiệu quả, phải dùng Truật Phụ.
-   Hữu quan mạch trầm trì: tỳ vị hàn lãnh, ăn không tiêu, nhiều đàm, nhiều khi thở khó vì bụng đầy, hoành cách mô là cơ hô hấp không vận chuyển được. Trị liệu nên dùng bài Tứ Quân gồm (Sâm, Truật, Linh, Thảo) gia thêm  Bán hạ và Phụ tử.
-   Tả xích trầm trì: hạ tiêu hàn lãnh, đi tiểu luôn, tinh khí không mạnh, đau lưng. Trị liệu nên dùng Toàn Chân Nhất Khí, bỏ Mạch môn, bội Truật Phụ. Nếu cần phải dùng Phụ Tử Lý Trung Thang.
-   Hữu xích trầm trì: Hỏa không đủ, tam tiêu lạnh, đặc biệt hạ tiêu và hai chân lạnh. Trị liệu nên dùng Bát Vị Quế Phụ.
Riêng mạch trầm trì vô lực như trầm trì mà vi tế hoặc nhuyễn nhược, hoặc ấn tay mạnh mà không thấy mạch thì chứng tỏ cơ thể rất hàn. Trầm trì vô lực xuất hiện cả ba bộ hai bên là toàn cơ thể hàn, dương muốn thoát. Trị liệu phải dùng đến Sâm Truật Phụ hồi dương. Trầm trì vô lực xuất hiện ở riêng bộ phận nào thì bộ phận đó hàn và dương khí bộ đó không còn.
Đại khái tứ tông mạch là như vậy. Tuy nhiên, cũng nên biết thêm rằng: mạch có ba bộ cả hai bên hoặc một bên trái hoặc phải, hoặc chỉ có một bộ phận nào đó, khi thì tiểu khi thì đại, khi thì trầm khi thì phù, khi thì sác khi thì trì, khi thì hữu lực, khi thì vô lực là mạch thuộc về hư bệnh.
Về mặt trị liệu được nhắc tới ở trên chỉ để độc giả có khái niệm sơ khởi mà thôi, sẽ bàn tới trong phần trị liệu pháp.

Ấn chẩn:
Như đã nói, ấn chẩn là một phần của thiết chẩn. Ấn chẩn để biết mềm hay cứng, để biết đau hay không, để biết phù hay thũng. Cũng có khi đả chẩn (lấy ngón tay gõ vào bụng để biết đặc hay trống không, đặc thì tiếng kêu đục, trống không thì tiếng kêu trong hơn).
Khi bệnh nhân đến với chúng ta, bảo rằng họ bị đau bụng. Thầy thuốc bảo bệnh nhân nằm xuống, lấy tay ấn nhẹ đến nặng, nếu bệnh nhân bảo không đau mà lại dễ chịu hơn. Như vậy đau đó là hư chứng (như hàn lãnh mà đau..) không phải là thực chứng (như có mụt nhọt, hoặc đồ ăn ứ đọng.v.v…). Hư chứng thì ấn xuống thấy mềm, thực chứng thì thấy cứng, đau. Một bệnh nhân đến y sĩ với hai bàn chân sưng húp, y sĩ lấy ngón tay ấn vào, lấy ngón ta ra, không thấy vết lõm thế là phù. Phù thường do nhiệt. Nếu y sĩ ấn ngón tay vào rồi rút ngón tay ra, ở bàn chân bệnh nhân hiện ra vết lõm, thế là bệnh nhân bị thũng. Thũng thường do hàn. Đặc biệt thận không đủ mạnh để thải nước tiểu ra ngoài.
Cũng có lúc chúng ta đứng lâu, máu theo trọng lực dồn xuống dưới chân, bị phù nhất thời. Sau một vài cử động thì phù sẽ biến mất. Cũng vậy, ngồi lâu trên ghế có nệm, phía dưới bắp vế bị cản bởi nệm, máu không dồn về tim được, bàn chân cũng bị phù, có khi lấy ngón tay ấn vào có vết lõm cạn, sau một vài cử động là hết. Đứng lâu, ngồi lâu, bị như vậy là bình thường. Tuy nhiên nên tránh đứng lâu hay ngồi lâu, nằm lâu …. thái quá đều có hại.

(Theo Đông y tân giải - BS. Lê Văn Trực)

File đính kèm
duongsinh(dongytangiai).pdf
Logged
Trang: [1] 2   Lên
 
Chuyển tới:  

Bạn có thể Đăng Ký Load 0.336 seconds với 20 câu truy vấn.