Hoa Sen Trên Đá

An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt

05-09-2025, 04:32 PM
Chào bạn! Bạn có thể Đăng Ký

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Nhập Cốc: người đang nhập cốc! Trong vòng 24 giờ có: 92 lượt nhập cốc.
Nhấp vào đây để Nhập Cốc.
   Đạo tràng   Tìm kiếm Đăng nhập Đăng ký  
Cỡ chữ: 19
Trang: [1]   Xuống
 
Chủ đề: Bài Kinh Cho Người Bệnh.  (Đọc 3723 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
vào lúc: 22-04-2019, 01:57 PM

Kinh Thứ Nhất Cho Người Bệnh
(Paṭhamagilānasutta)

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc, gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, tại động Pippali, vị Đại Trưởng Lão Mahākassapa lâm bệnh nặng, khổ thân hành hạ, bệnh tình trầm trọng.

Vào một buổi chiều, sau khi ra khỏi nơi thanh vắng, Đức Thế Tôn đến viếng thăm vị Đại Trưởng Lão Kassapa, ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Đức Thế Tôn bèn hỏi vị Đại Trưởng Lão Mahākassapa rằng:

- Này Kassapa, con có kham nhẫn nổi thọ khổ không?

Tứ đại của con có được điều hòa không?

Thọ khổ của con giảm bớt, chứ không tăng lên có phải không?

Bệnh tình giảm rõ ràng, không tăng có phải không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, con không thể kham nhẫn nổi thọ khổ.

Con không thể điều hòa tứ đại này được.

Thọ khổ của bệnh không thuyên giảm mà lại tăng lên.

Bệnh tình tăng lên rõ ràng, mà không giảm bớt. Bạch Ngài.

Đức Phật Thuyết 7 Pháp Giác Chi

- Này Kassapa, 7 pháp giác chi này mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

7 pháp giác chi ấy như thế nào?

1- Này Kassapa, pháp niệm giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

2- Này Kassapa, pháp phân tích giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

3- Này Kassapa, pháp tinh tấn giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

4- Này Kassapa, pháp hỷ giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

5- Này Kassapa, pháp an tịnh giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

6- Này Kassapa, pháp định giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

7- Này Kassapa, pháp xả giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

- Này Kassapa, 7 pháp giác chi này mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

Vị Đại Trưởng Lão Kassapa bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, 7 pháp giác chi thật tuyệt vời!

Kính bạch Đức Thiện Ngôn, 7 pháp giác chi thật tuyệt vời!

Đức Thế Tôn thuyết giảng 7 pháp giác chi xong, vị Đại Trưởng Lão Mahākassapa phát sinh tâm vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn. Vị Đại Trưởng Lão Mahākassapa đã khỏi bệnh ngay tức khắc, căn bệnh của vị Đại Trưởng Lão Mahākassapa bị tiêu tan, không còn tái phát lại nữa.

(Bài kinh thứ nhất cho người bệnh xong)

*

Bài Kinh Thứ Nhì Cho Người Bệnh
(Dutiyagilānasutta)

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc, gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, tại núi Gijjhakūṭa, vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna bị lâm bệnh nặng, khổ thân hành hạ, bệnh tình trầm trọng.

Vào một buổi chiều, sau khi ra khỏi nơi thanh vắng, Đức Thế Tôn đến viếng thăm vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna, ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Đức Thế Tôn bèn hỏi vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna rằng:

- Này Moggallāna, con có kham nhẫn nổi thọ khổ không?

Tứ đại của con có được điều hòa không?

Thọ khổ của con giảm bớt, chứ không tăng lên có phải không?

Bệnh tình giảm rõ ràng, không tăng có phải không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, con không thể kham nhẫn nổi thọ khổ.

Con không thể điều hòa tứ đại này được.

Thọ khổ của bệnh không thuyên giảm mà lại tăng lên.

Bệnh tình tăng lên rõ ràng, mà không giảm bớt. Bạch Ngài.

Đức Phật Thuyết 7 Pháp Giác Chi

- Này Moggallāna, 7 pháp giác chi này mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

7 pháp giác chi ấy như thế nào?

1- Này Moggallāna, pháp niệm giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

2- Này Moggallāna, pháp phân tích giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

3- Này Moggallāna, pháp tinh tấn giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

4- Này Moggallāna, pháp hỷ giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

5- Này Moggallāna, pháp an tịnh giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

6- Này Moggallāna, pháp định giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

7- Này Moggallāna, pháp xả giác chi mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

- Này Moggallāna, 7 pháp giác chi này mà Như Lai đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

Vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, 7 pháp giác chi thật tuyệt vời!

Kính bạch Đức Thiện Ngôn, 7 pháp giác chi thật tuyệt vời!

Đức Thế Tôn thuyết giảng 7 pháp giác chi xong, vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna phát sinh tâm vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn. Vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna đã khỏi bệnh ngay tức khắc, căn bệnh của vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna bị tiêu tan, không còn tái phát lại nữa.

(Bài kinh thứ nhì cho người bệnh xong)

*

Bài Kinh Thứ Ba Cho Người Bệnh
(Tatiyagilānasutta)

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc, gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, Đức Thế Tôn bị lâm bệnh nặng, khổ thân hành hạ, bệnh tình trầm trọng.

Vào một buổi chiều, vị Đại đức Mahācunda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ; vị Đại đức Mahācunda ngồi một nơi hợp lẽ, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này Cunda, con hãy tụng pháp Thất giác chi.

Vị Đại đức Mahācunda vâng lời dạy của Đức Thế Tôn tụng Pháp Thất Giác Chi như sau:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, 7 pháp giác chi này mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

7 pháp giác chi ấy như thế nào?

1- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp niệm giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

2- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp phân tích giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

3- Kính bạh Đức Thế Tôn, pháp tinh tấn giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

4- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp hỷ giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

5- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an tịnh giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

6- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp định giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

7- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp xả giác chi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

- Kính bạch Đức Thế Tôn, 7 pháp giác chi này mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chân chính; được thực hành, được thực hành nhiều, để phát sinh trí tuệ thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này Cunda, 7 pháp giác chi thật tuyệt vời!

Này Cunda, 7 pháp giác chi thật tuyệt vời!

Vị Đại đức Mahācunda tụng 7 pháp giác chi xong, Đức Thế Tôn phát sinh tâm hoan hỷ 7 pháp giác chi ấy, Đức Thế Tôn đã khỏi bệnh ngay tức khắc, căn bệnh của Đức Thế Tôn bị tiêu tan, không còn tái phát lại nữa.

(Bài kinh thứ ba cho người bệnh xong)
Logged
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
Trả lời #1 vào lúc: 22-04-2019, 02:01 PM

Điều Nên Biết Về Thất Giác Chi

Để bài kinh 7 pháp giác chi trở thành pháp linh dược mầu nhiệm, chữa trị hiệu nghiệm chứng bệnh của bệnh nhân thì:

Đối với người tụng cần phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu, từng mỗi chi pháp của mỗi pháp giác chi. Khi tụng kinh với thiện tâm hợp với trí tuệ, phát âm rõ ràng chuẩn mực từng chữ, từng câu của mỗi pháp giác chi, thì 7 pháp giác chi có oai lực phi thường đến cho bệnh nhân.

Đối với bệnh nhân cũng cần phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu, từng mỗi chi pháp của mỗi giác chi. Khi lắng nghe bài kinh 7 pháp giác chi với thiện tâm hợp với trí tuệ, hiểu rõ từng chữ, từng câu, từng mỗi chi pháp của mỗi pháp giác chi, thì mới phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nhất là nơi 7 pháp giác chi này. Chính thiện tâm vô cùng hoan hỷ này làm cho tứ đại trong thân thể được điều hòa, nên tiêu diệt được chứng bệnh của bệnh nhân.

Thất Giác Chi (Satta bojjhaṅga)

Bojjhaṅga: Giác chi là pháp dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

Giác chi có 7 pháp:

Satisambojjhaṅga: Pháp niệm giác chi.
Dhammavicayasambojjhaṅga: Pháp phân tích giác chi.
Vīriyasambojjhaṅga: Pháp tinh tấn giác chi.
Pītisambojjhaṅga: Pháp hỷ giác chi.
Passaddhisambojjhaṅga: Pháp an tịnh giác chi.
Samādhisambojjhaṅga: Pháp định giác chi.
Upekkhāsambojjhaṅga: Pháp xả giác chi.

7 pháp giác chi thuộc loại tâm sở đồng sinh với tâm thiện. Mỗi giác chi là mỗi tâm sở đồng sinh với tâm như sau:

1- Pháp niệm giác chi đó là tâm sở niệm (saticetasika) đồng sinh với 8 đại thiện tâm làm phận sự niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp; dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

2- Pháp phân tích giác chi đó là tâm sở trí tuệ (paññācetasika) đồng sinh với 4 đại thiện tâm hợp với trí tuệ làm phận sự phân tích pháp thiện, pháp bất thiện v.v... là pháp dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

3- Pháp tinh tấn giác chi đó là tâm sở tinh tấn (vīriyacetasika) đồng sinh với 8 đại thiện tâm làm phận sự tinh tấn thực hành thiền tuệ, để làm cho thiện pháp phát sinh tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

4- Pháp hỷ giác chi đó là tâm sở hỷ (pīticetasika) đồng sinh với 4 đại thiện tâm cùng với hỷ làm phận sự hoan hỷ (thực hành thiền định), thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

5- Pháp an tịnh giác chi đó là tâm sở an tịnh tam uẩn (kāyapassaddhi) và tâm sở an tịnh thức uẩn (cittapassaddhi) đồng sinh với 8 đại thiện tâm, làm phận sự làm an tịnh toàn tâm sở và tâm trong khi thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

6- Pháp định giác chi đó là tâm sở nhất tâm (ekaggatācetasika) đồng sinh với 8 đại thiện tâm, làm phận sự định từng thời trong đối tượng thiền tuệ (danh pháp - sắc pháp), dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

7- Pháp xả giác chi đó là tâm sở trung dung (tatramajjhattata) đồng sinh với 8 đại thiện tâm, làm phận sự điều hòa các pháp chủ đồng đều với nhau như tín pháp chủ và tuệ pháp chủ đồng đều với nhau; và tấn pháp chủ và định pháp chủ đồng đều với nhau; niệm pháp chủ càng mạnh càng tốt, để điều hòa các pháp chủ khác, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

7 Pháp Giác Chi Liên Quan Với 37 Pháp Phát Sinh 4 Thánh Đạo (37 Bodhipakkhiyadhamma) như sau:

1- Pháp niệm giác chi đó là tâm sở niệm có phận sự liên quan với các pháp:

4 pháp tứ niệm xứ.
1 pháp niệm pháp chủ (trong 5 pháp chủ).
1 pháp niệm pháp lực (trong 5 pháp lực).
1 pháp chánh niệm (trong 8 pháp chánh đạo).

2- Pháp phân tích giác chi đó là tâm sở trí tuệ có phận sự liên quan với các pháp:

1 pháp tuệ thành tựu (trong 4 pháp thành tựu)
1 pháp tuệ pháp chủ (trong 5 pháp chủ).
1 pháp tuệ pháp lực (trong 5 pháp lực).
1 pháp chánh kiến (trong 8 pháp chánh đạo).

3- Pháp tinh tấn giác chi đó là tâm sở tinh tấn có phận sự liên quan với các pháp:

4 pháp tinh tấn
1 pháp tinh tấn thành tựu (trong 4 pháp thành tựu).
1 pháp tấn pháp chủ (trong 5 pháp chủ).
1 pháp tấn pháp lực (trong 5 pháp lực).
1 pháp chánh tinh tấn (trong 8 pháp chánh đạo).

4- Pháp hỷ giác chi đó là tâm sở hỷ có phận sự hoan hỷ trong đối tượng thiền tuệ (thân, thọ, tâm, pháp).

5- Pháp an tịnh giác chi đó là tâm sở an tịnh tam uẩn và tâm sở an tịnh thức uẩn, có phận sự làm cho tâm an tịnh vắng lặng trong khi thực hành thiền tuệ.

6- Pháp định giác chi đó là tâm sở nhất tâm có phận sự liên quan với các pháp:

1 pháp định pháp chủ (trong 5 pháp chủ).
1 pháp định pháp lực (trong 5 pháp lực).
1 pháp chánh định (trong 8 pháp chánh đạo).

7- Pháp xả giác chi đó là tâm sở trung dung có phận sự làm điều hòa các pháp chủ đồng đều với nhau như: Tín pháp chủ và tuệ pháp chủ đồng đều với nhau; và tấn pháp chủ và định pháp chủ đồng đều với nhau; còn niệm pháp chủ càng mạnh càng tốt để điều hòa 4 pháp chủ khác làm tròn phận sự của mình...

Sự Phát Sinh Của 7 Pháp Giác Chi

7 pháp giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh do nhờ yonisomanasikāra: trí tuệ hiểu biết đúng thực tánh các pháp của mỗi giác chi, hỗ trợ pháp giác chi nào chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi pháp giác chi ấy đã phát sinh rồi, thì được tăng trưởng.

Sự Phát Sinh Của Mỗi Pháp Giác Chi

Mỗi pháp giác chi được phát sinh do nhờ các pháp làm nhân duyên hỗ trợ. Các pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho mỗi giác chi nào chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi đã phát sinh rồi, thì được tăng trưởng.

Trong Chú giải Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāya) phần Mahāvagga, kinh Āhārasuttavaṇṇanā dạy mỗi pháp giác chi được phát sinh như sau:

1- Pháp niệm giác chi: Có 4 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp niệm giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

1.1. Hành giả có chánh niệm và trí tuệ tỉnh giác:

Chánh niệm đó là tứ niệm xứ: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.

Trí tuệ tỉnh giác đó là trí tuệ tỉnh giác trong phần Sampajaññapabba của phần niệm thân.

1.2. Tránh xa người thất niệm hay quên mình.

1.3. Gần gũi thân cận với bậc thiện trí thường có chánh niệm.

1.4. Hướng tâm thực hành pháp hành Tứ niệm xứ, trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm...

4 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp niệm giác chi chưa sinh, thì được phát sinh; khi pháp niệm giác chi đã phát sinh rồi, thì được tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

2- Pháp phân tích giác chi: Có 7 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp phân tích giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

2.1. Học hỏi các pháp ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, v.v...

2.2. Làm sạch sẽ bên trong thân mình và bên ngoài thân.

Bên trong thân mình: Tắm rửa sạch sẽ, cắt móng tay, cắt tóc, v.v...

Bên ngoài: Y phục sạch sẽ, chỗ ở gọn gàng sạch sẽ, v.v...

2.3. Điều hòa các pháp chủ (indriya) đồng đều như: Tín pháp chủ và tuệ pháp chủ đồng đều với nhau; và tấn pháp chủ và định pháp chủ đồng đều với nhau. Bởi vì:

Nếu tín pháp chủ mạnh, còn tuệ pháp chủ yếu, thì dễ cả tin, thiếu suy xét chín chắn.

Nếu tuệ pháp chủ mạnh, còn tín pháp chủ yếu, thì dễ sinh tính khoe khoang, tính hay ngụy biện.

Nếu tấn pháp chủ mạnh, còn định pháp chủ yếu, thì dễ sinh phóng tâm.

Nếu định pháp chủ mạnh, còn tấn pháp chủ yếu, thì dễ sinh lười biếng.

Cho nên: Tín pháp chủ và tuệ pháp chủ đồng đều với nhau; và tấn pháp chủ và định pháp chủ đồng đều với nhau. Còn niệm pháp chủ càng mạnh càng tốt, để giúp hỗ trợ các pháp chủ khác làm phận sự của mình, điều hòa tự nhiên.

2.4. Tránh xa người không có trí tuệ, không hiểu biết rõ ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, v.v...

2.5. Gần gũi thân cận với bậc thiện trí có trí tuệ hiểu biết rõ thực tánh của các pháp, nhất là có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp - sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp - sắc pháp, v.v...

2.6. Trí tuệ quán xét, phân tích, thấy rõ thực tánh của các pháp ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, v.v... một cách sâu sắc.

2.7. Hướng tâm thực hành thiền tuệ trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm v.v... để pháp phân tích giác chi phát sinh.

7 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp phân tích giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi đã phát sinh rồi, thì được tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

3- Pháp tinh tấn giác chi: Có 11 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp tinh tấn giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

3.1. Quán xét thấy tai họa trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh.

3.2. Quán xét thấy quả báu của sự tinh tấn thực hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

3.3. Quán xét con đường thực hành pháp hành của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh Văn Giác, để hành giả noi gương thực hành theo quý Ngài.

3.4. Biết tôn trọng vật thực do khất thực: Hành giả quán xét rằng: “Những thí chủ làm phước cúng dường vật thực v.v... cho ta; họ mong hưởng được quả báu trong cõi người, trong cõi trời và quả báu Niết Bàn cao thượng. Ta có khả năng đáp ứng, đem lại những lợi ích quả báu ấy cho họ hay không?”.

Quán xét như vậy, nên hành giả cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ.

3.5. Quán xét 7 thứ của báu là đức tin, giới, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, đa văn túc trí (học nhiều hiểu rộng), bố thí và trí tuệ. Đối với hành giả có tinh tấn mới được thừa kế trọn vẹn 7 thứ của báu này.

3.6. Quán xét Đức Phật là bậc cao thượng nhất; các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật phải nên có sự tinh tấn trong mọi thiện pháp, nhất là thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

3.7. Quán xét dòng họ cao quý: Bậc xuất gia trở thành Tỳ khưu cao quý trong giáo pháp của Đức Phật thuộc vào dòng dõi Sakya gọi là Sakyaputta, thậm chí các hàng tại gia cư sĩ đã đến quy y Tam Bảo, cũng gọi là người Phật tử thuộc dòng cao quý.

Như vậy, các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật phải nên có sự tinh tấn thực hành thiền tuệ...

3.8. Quán xét các bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật: Nhị vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn là Ngài Đại đức Sāriputta và Ngài Đại đức Mahāmoggallāna, 80 vị Thánh Đại Thanh Văn, và chư Thánh Thanh Văn khác đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái,... giải thoát khổ tử sinh luân hồi đều là những vị có sự tinh tấn.

3.9. Tránh xa hạng người lười biếng dể duôi.

3.10. Gần gũi thân cận với bậc thiện trí có tinh tấn bất  thoái.

3.11. Quyết tâm thực hành thiền tuệ trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v...

11 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp tinh tấn giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi đã phát sinh, thì được tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

4- Pháp hỷ giác chi: Có 11 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp hỷ giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

4.1. Niệm 9 Ân đức Phật.

4.2. Niệm 6 Ân đức Pháp.

4.3. Niệm 9 Ân đức Tăng.

4.4. Niệm tưởng giới trong sạch và trọn vẹn của mình.

4.5. Niệm tưởng đến sự bố thí mà mình đã tạo.

4.6. Niệm 7 Ân đức của chư thiên là: Đức tin, giới, nghe nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ, hổ thẹn tội lỗi, và ghê sợ tội lỗi. Những pháp ấy cũng có trong ta.

4.7. Niệm Ân đức Niết Bàn tịch tịnh.

4.8. Tránh xa người đang buồn khổ do phiền não ô nhiễm.

4.9. Gần gũi thân cận với bậc thiện trí có tâm trong sáng hoan hỷ.

4.10. Quán xét những bài kinh làm phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hoan hỷ trong Pháp Bảo.

4.11. Hướng tâm thực hành thiền tuệ trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v...

11 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp hỷ giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi đã phát sinh, thì được tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

5- Pháp an tịnh giác chi: Có 7 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp an tịnh giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

5.1. Dùng vật thực thích hợp, bổ dưỡng cho sức khỏe.

5.2. Thời tiết thuận lợi, không nóng, không lạnh.

5.3. Oai nghi thuận lợi, không ép xác khổ hạnh, không dể duôi quên mình, luôn luôn có chánh niệm.

5.4. Tâm tính trung dung, điều hòa tâm được an lạc.

5.5. Tránh xa người có thân tâm không an tịnh.

5.6. Gần gũi thân cận với bậc thiện trí có thân tâm an tịnh.

5.7 Hướng tâm đến thực hành thiền tuệ trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm v.v...

7 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp an tịnh giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi đã phát sinh, thì được tăng trưởng, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

6- Pháp định giác chi: Có 11 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp định giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

6.1. Làm sạch sẽ bên trong thân mình và bên ngoài thân. (đã trình bày trong phần pháp phân tích giác chi).

6.2. Điều hòa các pháp chủ (indriya) đồng đều... (đã trình bày trong phần pháp phân tích giác chi).

6.3. Thông thạo 3 đối tượng (nimitta) của pháp hành thiền định:

Parikammanimitta: Đối tượng bắt đầu thực hành thiền định.

Uggahanimitta: Đối tượng thô tương tự phát sinh trong tâm.

Paṭibhāganimitta: Đối tượng vi tế trong sáng hiện rõ trong tâm.

6.4. Biết nâng đỡ tâm đúng lúc, nghĩa là khi nào tâm biếng nhác, tinh tấn yếu, không muốn thực hành thiền, khi ấy, hành giả biết nâng đỡ tâm bằng pháp phân tích giác chi, pháp tinh tấn giác chi, pháp hỷ giác chi.

6.5. Biết chế ngự, đè nén tâm đúng lúc, nghĩa là khi nào phóng tâm, tâm không an trụ trong đề mục, khi ấy, hành giả biết chế ngự, đè nén tâm bằng pháp an tịnh giác chi, pháp định giác chi, pháp xả giác chi.

6.6. Biết làm cho tâm hài lòng hoan hỷ trong pháp hành thiền, nghĩa là khi nào đức tin và trí tuệ kém, không hài lòng trong pháp hành, khi ấy, hành giả nên quán xét 8 pháp phát sinh động tâm (saṃvega) đó là: Sự sinh, sự già, sự bệnh, sự chết, 4 cõi ác giới, khổ luân hồi do gốc từ quá khứ, khổ luân hồi trong thời vị lai, khổ trong thời hiện tại.

6.7. Biết đặt tâm trung dung đúng lúc, nghĩa là không nâng đỡ tâm, cũng không chế ngự đè nén tâm, cũng không làm cho tâm hài lòng.

6.8. Tránh xa người không có tâm an định.

6.9. Gần gũi thân cận với bậc thiện trí có tâm an định.

6.10. Quán xét pháp giải thoát từng thời.

6.11. Hướng tâm đến thực hành thiền định và thực hành thiền tuệ trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v...

11 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp định giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh; khi đã phát sinh, thì được tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

7- Pháp xả giác chi: Có 5 pháp làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp xả giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh như sau:

7.1. Tâm xả đối với mọi chúng sinh.

Suy xét rằng: “Mỗi chúng sinh có nghiệp riêng của mình, ta sinh ra trong đời này do nghiệp của ta, rồi ta chết, từ giã cõi đời này cũng do nghiệp của ta; chúng sinh khác, người khác cũng như ta vậy”.

Do đó, phát sinh tâm xả đối với mọi chúng sinh.

Một cách khác, suy xét theo Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma), không phải ta mà chỉ là ngũ uẩn, danh pháp và sắc pháp mà thôi. Cũng như vậy, không phải người, không phải chúng sinh, mà chỉ là ngũ uẩn, danh pháp và sắc pháp mà thôi.

Do đó, phát sinh tâm xả, không chấp thủ chúng sinh.

7.2. Tâm xả đối với tất cả mọi thứ đồ đạc của cải, mọi vật.

Suy xét rằng: “Không có một ai có khả năng làm chủ tất cả mọi thứ đồ đạc, của cải, mọi vật theo ý muốn của mình được. Thật vậy, các thứ ấy có sinh, có diệt là vô thường, có rồi lại hư hoại trở thành không tùy theo thực tánh của nó, không chiều theo ý của một ai”.

Do đó, phát sinh tâm xả đối với tất cả mọi thứ của cải...

Một cách khác, suy xét thấy tất cả mọi thứ đồ đạc, của cải, chỉ có thể tồn tại trong một thời gian nào đó mà thôi, không thể bền vững lâu dài được. Bây giờ nó chưa hư hoại, chắc chắn một ngày kia cũng phải bị hư hoại.

Do đó, phát sinh tâm xả đối với tất cả mọi thứ đồ đạc, của cải trong đời.

7.3. Tránh xa người hay chấp thủ nơi chúng sinh, người và nơi các thứ đồ đạc, của cải của mình.

Ví dụ:

- Tỳ khưu chấp thủ đệ tử của ta; người tại gia chấp thủ con cháu của ta...

- Vị Tỳ khưu chấp thủ y bát, chỗ ở của ta; người tại gia chấp thủ của cải, nhà cửa của ta...

Hành giả nên tránh xa hạng người chấp thủ ấy.

7.4. Gần gũi thân cận với người không chấp thủ.

7.5. Hướng tâm đến thực hành thiền tuệ trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm v.v...

5 pháp này làm nhân duyên hỗ trợ cho pháp xả giác chi chưa phát sinh, thì được phát sinh, khi đã phát sinh, thì được tăng trưởng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế...

(Tóm lược từ Chú giải kinh Āhārasutta trong bộ Samyuttanikāya, Mahāvagga)

https://www.budsas.org/uni/u-hophap/benh02.htm
Logged
nhà binh
Thành viên


Bài viết: 136


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: nhà binh
Trả lời #2 vào lúc: 22-04-2019, 04:06 PM

Cái này cũng như anh cầm một con cá mới câu được ở dưới sông, đem vô tiệm Sushi nổi tiếng nhất Tokyo, giữa giờ cao điểm rồi đứng giữa tiệm nói to:
Ttl: "Tui có một con cá ..."
Người bồi bàn: "rồi sao nữa ?!?"
Ttl: ...
Logged
Tibu
Administrator
*****
Giới tính:
Bài viết: 6086


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: Tibu Administrator
Trả lời #3 vào lúc: 22-04-2019, 07:32 PM

Cái này cũng như anh cầm một con cá mới câu được ở dưới sông, đem vô tiệm Sushi nổi tiếng nhất Tokyo, giữa giờ cao điểm rồi đứng giữa tiệm nói to:
Ttl: "Tui có một con cá ..."
Người bồi bàn: "rồi sao nữa ?!?"
Ttl: ...
Bà con mình có để ý đến chi tiết là:
Chính Đức Bổn Sư cũng bị luôn!
May nhờ "nhắc tuồng" cho nên Ngài mới tai qua nạn khỏi!

Kể cũng lạ!
Logged
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
Trả lời #4 vào lúc: 23-04-2019, 09:16 AM

Lẽ nào Đức Bổn Sư bệnh nặng, đau quá nên không nhớ nổi bài kinh mình đã nói ra, phải nhờ trợ lực kích phát từ bên ngoài, thông qua "nhắc tuồng" 😅
Logged
Tibu
Administrator
*****
Giới tính:
Bài viết: 6086


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: Tibu Administrator
Trả lời #5 vào lúc: 23-04-2019, 04:46 PM


Lẽ nào Đức Bổn Sư bệnh nặng, đau quá nên không nhớ nổi bài kinh mình đã nói ra, phải nhờ trợ lực kích phát từ bên ngoài, thông qua "nhắc tuồng" 😅

Thì có ai dám chế chiêu thêm cái gì... ở trong đây đâu?

Rõ ràng kinh ghi lại kinh nghiệm của Đức Phật mà!

=========

Câu chuyện này làm cho tibu lăn tăn!

Và... chế chiêu lại như sau:

Đức Phật bị đau toát mồ hôi lạnh luôn! Và dĩ nhiên không có cách nào chấm dứt cơn đau!

Tăng đoàn bí rị, không có ai nhớ được cái cách giảm đau!

 Chợt Đức Phật phát biểu một cách tĩnh rụi:

- - Zốt quá! Và Ngài cười ngắc ngoẽo!!!

Ai cũng lấy làm lạ vì sự đột biến này!!!

- - Các ông à! Nghe cho kỹ nè:

Rồi Ngài đọc lại đoạn kinh "Cho Người Bệnh"

Thêm cái đoạn:

- - Các ông à! Vừa rồi tôi vừa thực hiện xong, nên tôi đã hết đau rồi!

Dân chúng:

- - À à à à!!!

Rồi dân chúng

- - Ồ ồ ồ ồ!!!

Nhưng khi bị bịnh thì cùng nhau, rũ nhau, hè nhau... đi tìm Bác Sĩ!!!
Logged
HHDL
con cảm ơn Thầy và Má Nhung
Thành viên


Bài viết: 391

Ruồi Bu


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: HHDL
Trả lời #6 vào lúc: 23-04-2019, 10:26 PM

Lẽ nào Đức Bổn Sư bệnh nặng, đau quá nên không nhớ nổi bài kinh mình đã nói ra, phải nhờ trợ lực kích phát từ bên ngoài, thông qua "nhắc tuồng" 😅

Thất Giác chi thứ thiệt là đây nè...

https://storage.googleapis.com/storage.hoasentrenda.com/ThuVienHSTD/BenhOi-TaChaoMi.pdf

cái này thì ko chịu đọc ...  đây mới là cái đức Bổn Sư và các bị A LA HÁN Thực hành... đó cha lụi...
Logged
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
Trả lời #7 vào lúc: 27-04-2019, 01:45 AM

Tui đọc trong Tập Tin thì cách ATCNTM của Tứ Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp) và Thân Hành Niệm là quán cái hột vịt (aura) có thầy chùa ở trong đó và phồng xẹp...

Trieutulong xin hỏi các bậc thượng thủ chùa mình cách quán ATCNTM  Thất Giác Chi thế nào, có giống như cái hột vịt ở trên không, để tui mần và cho có người nào cần về sau ?!?😀
Logged
nhà binh
Thành viên


Bài viết: 136


Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: nhà binh
Trả lời #8 vào lúc: 27-04-2019, 08:28 AM

Tui đọc trong Tập Tin thì cách ATCNTM của Tứ Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp) và Thân Hành Niệm là quán cái hột vịt (aura) có thầy chùa ở trong đó và phồng xẹp...

Trieutulong xin hỏi các bậc thượng thủ chùa mình cách quán ATCNTM  Thất Giác Chi thế nào, có giống như cái hột vịt ở trên không, để tui mần và cho có người nào cần về sau ?!?😀

Nó nằm ở đây:
https://www.hoasentrenda.com/smf/index.php?topic=19303.msg65621;topicseen#msg65621
Logged
TrieuTuLong
Thành viên


Bài viết: 524



Xem hồ sơ cá nhân
Người gởi: TrieuTuLong
Trả lời #9 vào lúc: 27-04-2019, 10:53 AM

Nhà Binh,
Ý ông nói là phương pháp này (Thất Giác Chi) mà Đức Bổn Sư để lại, chỉ dành cho những tu sĩ đã có đầy đủ Giới và định lực ở mức nào đó... Bài kinh trên đã nói đến 3 bậc thượng thủ: Đức Bổn Sư, Ma Ha Ca Díp (Ngài này đệ nhất khổ hạnh đầu đà, chuyên sống trong rừng, lớn tuổi hơn Đức Phật và đã sống lâu hơn trăm tuổi); Mục Kiều Liên (đệ nhất thần thông)...

Thời đó còn có Ngài A Na Luật (đệ nhất thiên nhãn - là người đứng cạnh Đức Phật lúc nhập niết bàn, Ngài này có lẽ thuộc trường phái Chùa mình 😅)...

Vậy thì chỉ còn có nước vô cốc 3 tháng, hoặc bỏ nhà đi ăn xin và kiếm gốc cây để ngồi hả?!? 😂


Tui nghĩ: mình chưa đủ sức, thì từ từ gặm, miễn không bỏ cuộc, có Người Chỉ Đường và anh em đồng đạo, thì nhất định sẽ có ngày gặt kết quả 😅 tu thì phải tập mà 😀 cái cuộc đời này mà không được tu, không được làm những gì mình thích (tu), thì nó chán lắm... 🤣

Tui thấy Bài Pháp dẫn link không đúng với trường hợp của tui, xưa giờ tui chỉ thích pp hột vịt thôi, và tui cũng KHÔNG BỎ CUỘC! 😀
Logged
Trang: [1]   Lên
 
Chuyển tới:  

Bạn có thể Đăng Ký Load 8.981 seconds với 19 câu truy vấn.