con chào thầy!
con vừa xin được 1 cái chày kim cang của các anh chị lubu. Con thích chày kim cang từ lúc mới biết về mật tông cách nay khoảng 5-6 năm, con có hỏi nhiều tu sĩ nhưng không ai trả lời cho kỹ càng và tường tận, chỉ nói chung chung thôi. Từ hôm có được chày kim cang của "phe ta" cho con, con lúc nào cũng thích ngắm nhìn nó và vuốt ve đến nó lên nước luôn, khi con cầm nó bên tay phải thì hình như có một dòng điện không biết phát ra từ đâu mà nó tê tê cái tay và dễ chịu lắm.
Thầy cho con hỏi cách sử dụng nó như thế nào?
Thì cứ cầm theo cái ấn Kim Cang. Có nghĩa là: Bàn tay để ngửa để cái chày lên lòng bàn tay. Và sau đó co hai ngón tay giữa và ngón áp út vào lòng bàn tay. Thế nào cho hai ngón này nó cuộn lên cái cục tròn của cái Chày Kim Cang. Ba ngón kia cứ duỗi thẳng và thư giãn tự nhiên. Tư thế của bàn tay có cả cái chày bên trong thì sao cũng được.
khi công phu,
thì làm như trên
khi hộ thân,
Thì hộ thân xong thì mới cầm chày mà tập dợt
khi chữa bệnh
Cận Định:
Không nên làm gì cả. Lý do là do tâm chưa được ổn định nên chày có thể bị Tha Hóa Tự Tại nhập. Chỉ làm sau khi có Chánh Định vững chắc (Tứ Thiền Hữu Sắc).
và sự liên quan giữa chày kim cang và vũ trụ thì như thế nào.
mail của con :
coprungsg@yahoo.comcon chào thầy.
timchansu
Cái câu này mới thật là hay đó nghe
Bà Con Cô Bác Giảm Vận Tốc Đọc lại, đường trở nên cực kỳ trơn trợt Cấu trúc của Chày Kim Cang (CKC): Hình dạng chung là gồm ba cục tròn.
Có thể tưởng tượng là dồn ép ba cục này thành một cục gọn lỏn Và đó là cái viên mãn của Trí Tuệ.
Khi bung ra (thành ba cục) thì hai cục ở hai đầu đại diện cho hai phần:
1. Vật Chất (cục bốn khía)
2. Tinh Thần (cục bốn khía).
3. Và cục ở giữa là cái cục của Trí Tuệ.
Như vậy là CKC có nguồn gốc là Đại Vũ Trụ vì nó gồm cả ba phần: Vật Chất, Trí Tuệ, và Tinh Thần.
Nếu nó chỉ dừng lại như vậy thôi thì cũng gọi là thường thôi.
Nhưng trong quy trình đi tìm ra Đức Tỳ Lô Giá Na:
Hành giả lặn lội từ trú xứ của mình (Nam Thiệm Bộ Châu) lên đến Liên Hoa Tạng.
Tới đây rồi thì mới nhìn cho ra cái trung tâm của tập hợp các núi Tu Di. Và nhờ Thần Lực của Bổn Tôn để đưa mình vào cái núi Tu Di này. Và Ngài Tỳ Lô Giá Na xuất hiện.
Sau đó là nhờ chính Ngài Tỳ Lô Giá Na đưa mình vào cái đảnh của Ngài.
Và tại đó thực hiện
quy trình Phản Bổn Hoàn Nguyên. Quy trình này, không dễ gì thực hiện được. Là vì chính nơi này sẽ hội tụ, đầy đủ năm Ngài Bổn Tôn (gồm Phật A Di Đà, Ngài Quan Thế Âm, Ngài Hộ Pháp và chính Hành Giả).
Năm Ngài này sắp xếp như là hình xí ngầu ở mặt số năm (5). Với Đức Tỳ Lô Giá Na ở ngay giữa.
Sau khi đã ổn định vị trí thì tất cả đều cầm mỗi người một cái CKC và đồng loạt quăng hướng vào ngay giữa.
Vừa quăng và cũng đồng thời vừa tác ý bay vào ngay giao điểm mà năm cái chày này chạm nhau:
Quy trình này tạo một sức nén vô cùng manh mẽ, và cùng với tiếng nổ long trời lở đất cùng với ánh sánh chói lòa,... Năm Ngài đã hòa tan vào thành một và hoàn thành câu chuyện tu hành từ cái Có qua cái Không.
Dấu vết còn đọng lại trên CKC ở vào hai đầu. Chỗ mà năm nhánh giao lại với nhau ở hai phần Vật Chất và Tinh Thần.
==================================
[...]
Một ít ý so sánh về Thiền và Mật Tông:
Tất cả các pháp hữu vi, sự vật đều là Phật và Thân này là Phật. Đây là phần nhân sinh quan sâu sắc và cũng là điều quan trọng khác biệt giữa cái nhìn của Mật Tông và Thiền Tông.
- Thiền: Trực chỉ Chơn Tâm, kiến tánh thành Phật: Do đó cái nhìn của Thiền là trở về Nội Quan, nên Thiền chủ trương Phá Tướng nhập Tánh.
* Mật chủ trương Dụng Tướng nhập Tánh! Ngoài ra:
- Thiền chủ trương: Từ Tĩnh vào Định.
* Mật chủ trương: Từ Động vào Định. Như vậy:
- Thiền là trở về Nội Tâm: Mọi Tướng đều Phá.
* Mật là: Nội Ngoại dung thông, Tướng Tâm Đồng Dụng. - Tinh thần Thiền là phá chấp triệt để.
* Mật là chẳng chấp tướng mà cũng không phá tướng: Nhưng từ Hữu Tướng mà vào Vô Tướng. - Chỗ ngồi của Thiền là Đương Xứ: Tức là Ở Đây, Chỗ Này, Không Quá Khứ, Không Vị Lai.
* Chỗ ngồi của Mật là: Tự Tại Vô Ngại, Ra Vào Dung Thông, Nhiếp cả Tam Thế (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới). - Thiền cho rằng: Một giờ Thiền là một giờ Phật, một ngày Thiền là một ngày Phật, một đời Thiền là một đời Phật.
* Mật cho rằng Phật ở trong Ta, Phật ở ngoài Ta, Phật hằng có đó, Phật chính là Ta. - Thiền quyết định: gặp Phật cũng đuổi, gặp Ma cũng đuổi: Xua đi tất cả chỉ còn Tâm ta.
* Mật quyết định:
Ta gởi Ta nơi Phật, Phật gởi Phật trong Ta,
Cả hai đều cứu độ: Chẳng còn Phật, còn Ta. - Thiền chủ trương ngoài chẳng nhờ trợ duyên, trong không mống Tâm tạo tác.
* Mật chủ trương ngoài cần cầu Tha Lực, trong Tự Lực khởi sanh: Tự Tha đều là một, mọi việc mới viên thành. Tóm lại người tu Mật đi từ: Sanh diệt môn vào Chơn Như, Tự Tánh. Từ Tướng Dụng đi vào Thể. Chuyển Phước Nghiệp Hữu Lậu thành Công Đức Vô Lậu nhờ vào phương tiện là Chơn Ngôn.