
An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt (hỏi đáp)
Hỏi Đáp Xem 991 4 năm trước
An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt (hỏi đáp)
Thầy Tibu 23-02-2009
Rùa biển hỏi: An Trú chánh niệm đằng trước mặt là gì?
Tại sao chúng ta phải an trú chánh niệm đằng trước mặt?
Tứ niệm Xứ thiền có an trú chánh niệm đằng trước mặt không?
Mong anh HL trả lời cho. Thanks
Thầy Tibu trả lời:
Tại sao chúng ta phải an trú chánh niệm đằng trước mặt?
Tứ niệm Xứ thiền có an trú chánh niệm đằng trước mặt không?
Mong anh HL trả lời cho. Thanks
Thầy Tibu trả lời:
117. Ðại kinh Bốn mươi (Mahàcattàrìsaka sutta) Trong Trung Bộ Kinh tập 3.
Có ghi lại kỹ lưỡng như sau:
[...]
Ở đây, này các Tỷ-kheo chánh kiến đi hàng đầu. Và thế nào, này Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh kiến được khởi lên. Chánh ngữ do chánh tư duy được khởi lên. Chánh nghiệp do chánh tư duy được khởi lên. Chánh mạng do chánh nghiệp được khởi lên. Chánh tinh tấn do chánh mạng được khởi lên. Chánh niệm do chánh tinh tấn được khởi lên. Chánh định do chánh niệm được khởi lên. Chánh trí do chánh định được khởi lên. Chánh giải thoát do chánh trí được khởi lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đạo lộ của vị hữu học gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị A-la-hán gồm có mười chi phần.
[...]
Như vậy thì cái này, nó sanh ra cái kia! Theo quy trình trong kinh, có thể tóm tắt như sau:
Chánh Kiến (mà làm xong) thì ---> (sinh ra) Chánh Tư Duy (mà làm xong) thì ---> (sinh ra) Chánh Ngữ ---> Chánh Nghiệp ---> Chánh Mạng ---> Chánh Tinh Tấn ---> Chánh Niệm ---> Chánh Định ---> Chánh Trí ---> Chánh Giải Thoát.
Trong mười bước này mà dừng ở Chánh Định (vào bước thứ tám) thì Đức Phật Thích Ca nói là: Đây là "Bậc Hữu Học" Có nghĩa là tu chưa xong và còn phải học tiếp.
Còn nếu đi mút chỉ đến "Chánh Giải Thoát" (cái thứ mười) thì Ngài lại gọi đó là "Bậc Vô Học" hay là A La Hán.
Dựa trên tiêu chuẩn này mà nhìn thiệt là kỹ, tất cả những kỹ thuật của những tu sĩ đã thực hiện cái mà những vị này gọi là "chánh niệm". Tụi mình thấy những tu sĩ này thực tập rập khuôn như nhau, đó là theo dõi và "để ý tới ngay cái hiện tại":
Nếu là đang thở, thì niệm: "phồng, xẹp" ... "phồng, xẹp" ...
Nếu đang đi, thì lại: "chân trái" ..."chân phải" ... (hay là "trái" ... "phải"...)
Nếu là đang ngồi, thì: "Ngồi" ... "ngồi" ...
Nếu đang ăn, thì: Nhai ... nhai ... nuốt ... gắp ... bỏ vào ... nhai ... nhai ... nuốt ...
Nếu ngồi quán mà uống ca phê, nghe nhạc và ngắm cảnh: Nhìn ... nhìn ... nhìn ... bưng ... uống ... nuốt ... để xuống ... nhìn ... nhìn ... nghe ... nghe
Khá hơn tí xíu: Tu sĩ lại trụ tâm vào chóp mũi: Tu sĩ chỉ để ý đến cái chóp mũi, ngoài ra lại không để ý tới cái gì khác hết.
Tóm lại:
Đây là cách thực tập theo cách: Thân ở đâu thì ... tâm cứ việc ở đó.
Kết quả:
Không thể nào chối cãi rằng sau một thời gian thực tập thì tâm hành giả cũng được yên lặng phần nào.
Và rồi tất cả những tu sĩ này đều dừng lại ở đây! Chưa vị nào đi xa hơn chỗ này! Vì làm như vậy thì không cách gì mà tiến đến Chánh Định được!
Số tu sĩ này rất là nhiều.
Tại sao?
Là vì tất cả những bài thuyết pháp chỉ nói tới đây thôi (ý của đệ là: Thân ở đâu thì ... tâm cứ việc ở đó)! Chớ chưa có bài nào nói lên được rằng:
Từ cách này thì có thể bước tới cái "Chánh Định" bằng cách tập như thế này, như thế kia!
Vì không có với tới nổi cái "Chánh Định" nên các vị này ... chưa xong phần của "Bậc Hữu Học" (căn cứ theo Đại kinh Bốn Mươi).
Bế tắc! Bế tắc! Bế tắc!
Như vậy, cách tập: "Thân ở đâu thì ... tâm ở đó" không phải là "Chánh Niệm" vì nó không có thể nào dẫn đến cái trình độ kế tiếp là cái "Chánh Định"!
Mời các Bạn tự do đặt câu hỏi và đưa vào đây kinh nghiệm "Chánh Định" của mình (nếu có, qua cách tập "thân ở đâu thì ... tâm ở đó") để anh em mình học hỏi và sửa sai.
Có ghi lại kỹ lưỡng như sau:
[...]
Ở đây, này các Tỷ-kheo chánh kiến đi hàng đầu. Và thế nào, này Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh kiến được khởi lên. Chánh ngữ do chánh tư duy được khởi lên. Chánh nghiệp do chánh tư duy được khởi lên. Chánh mạng do chánh nghiệp được khởi lên. Chánh tinh tấn do chánh mạng được khởi lên. Chánh niệm do chánh tinh tấn được khởi lên. Chánh định do chánh niệm được khởi lên. Chánh trí do chánh định được khởi lên. Chánh giải thoát do chánh trí được khởi lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đạo lộ của vị hữu học gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị A-la-hán gồm có mười chi phần.
[...]
Như vậy thì cái này, nó sanh ra cái kia! Theo quy trình trong kinh, có thể tóm tắt như sau:
Chánh Kiến (mà làm xong) thì ---> (sinh ra) Chánh Tư Duy (mà làm xong) thì ---> (sinh ra) Chánh Ngữ ---> Chánh Nghiệp ---> Chánh Mạng ---> Chánh Tinh Tấn ---> Chánh Niệm ---> Chánh Định ---> Chánh Trí ---> Chánh Giải Thoát.
Trong mười bước này mà dừng ở Chánh Định (vào bước thứ tám) thì Đức Phật Thích Ca nói là: Đây là "Bậc Hữu Học" Có nghĩa là tu chưa xong và còn phải học tiếp.
Còn nếu đi mút chỉ đến "Chánh Giải Thoát" (cái thứ mười) thì Ngài lại gọi đó là "Bậc Vô Học" hay là A La Hán.
Dựa trên tiêu chuẩn này mà nhìn thiệt là kỹ, tất cả những kỹ thuật của những tu sĩ đã thực hiện cái mà những vị này gọi là "chánh niệm". Tụi mình thấy những tu sĩ này thực tập rập khuôn như nhau, đó là theo dõi và "để ý tới ngay cái hiện tại":
Nếu là đang thở, thì niệm: "phồng, xẹp" ... "phồng, xẹp" ...
Nếu đang đi, thì lại: "chân trái" ..."chân phải" ... (hay là "trái" ... "phải"...)
Nếu là đang ngồi, thì: "Ngồi" ... "ngồi" ...
Nếu đang ăn, thì: Nhai ... nhai ... nuốt ... gắp ... bỏ vào ... nhai ... nhai ... nuốt ...
Nếu ngồi quán mà uống ca phê, nghe nhạc và ngắm cảnh: Nhìn ... nhìn ... nhìn ... bưng ... uống ... nuốt ... để xuống ... nhìn ... nhìn ... nghe ... nghe
Khá hơn tí xíu: Tu sĩ lại trụ tâm vào chóp mũi: Tu sĩ chỉ để ý đến cái chóp mũi, ngoài ra lại không để ý tới cái gì khác hết.
Tóm lại:
Đây là cách thực tập theo cách: Thân ở đâu thì ... tâm cứ việc ở đó.
Kết quả:
Không thể nào chối cãi rằng sau một thời gian thực tập thì tâm hành giả cũng được yên lặng phần nào.
Và rồi tất cả những tu sĩ này đều dừng lại ở đây! Chưa vị nào đi xa hơn chỗ này! Vì làm như vậy thì không cách gì mà tiến đến Chánh Định được!
Số tu sĩ này rất là nhiều.
Tại sao?
Là vì tất cả những bài thuyết pháp chỉ nói tới đây thôi (ý của đệ là: Thân ở đâu thì ... tâm cứ việc ở đó)! Chớ chưa có bài nào nói lên được rằng:
Từ cách này thì có thể bước tới cái "Chánh Định" bằng cách tập như thế này, như thế kia!
Vì không có với tới nổi cái "Chánh Định" nên các vị này ... chưa xong phần của "Bậc Hữu Học" (căn cứ theo Đại kinh Bốn Mươi).
Bế tắc! Bế tắc! Bế tắc!
Như vậy, cách tập: "Thân ở đâu thì ... tâm ở đó" không phải là "Chánh Niệm" vì nó không có thể nào dẫn đến cái trình độ kế tiếp là cái "Chánh Định"!
Mời các Bạn tự do đặt câu hỏi và đưa vào đây kinh nghiệm "Chánh Định" của mình (nếu có, qua cách tập "thân ở đâu thì ... tâm ở đó") để anh em mình học hỏi và sửa sai.
---
Thầy Tibu trả lời tiếp theo:
Trở về lại vấn đề.
Đây là dùng cách "Thân ở đâu thì ... tâm cứ ở đó" và có nhiều vị tu sĩ cho đây là "chánh niệm".
Nhưng theo quy trình của "kinh bốn mươi" thì hễ mà có "Chánh Niệm" thì liền đó, nó sanh ra "Chánh Định". Tuy nhiên, chưa có ai đạt được "Chánh Định" khi tập theo cách này.
Phải thấy cái chỗ này: Tâm thức có yên lặng khi tập cái này.
Nhưng nó lại không im luôn mà nó chỉ ... đi ngủ một tí, rồi sau đó: Nó lại tỉnh dậy và quậy tiếp!
Như vậy thi phải làm sao đây?
Tình trạng ... kẹt xe này đã xảy ra lâu rồi! Vì hễ mà mình lơi là một tí là nó hiện ra lại và quậy liền (ý nói cái vọng tâm).
Đây là dùng cách "Thân ở đâu thì ... tâm cứ ở đó" và có nhiều vị tu sĩ cho đây là "chánh niệm".
Nhưng theo quy trình của "kinh bốn mươi" thì hễ mà có "Chánh Niệm" thì liền đó, nó sanh ra "Chánh Định". Tuy nhiên, chưa có ai đạt được "Chánh Định" khi tập theo cách này.
Phải thấy cái chỗ này: Tâm thức có yên lặng khi tập cái này.
Nhưng nó lại không im luôn mà nó chỉ ... đi ngủ một tí, rồi sau đó: Nó lại tỉnh dậy và quậy tiếp!
Như vậy thi phải làm sao đây?
Tình trạng ... kẹt xe này đã xảy ra lâu rồi! Vì hễ mà mình lơi là một tí là nó hiện ra lại và quậy liền (ý nói cái vọng tâm).
---
Thầy Tibu trả lời tiếp theo:
Tình trạng "kẹt xe" và những phản ứng của tu sĩ:
Nhắc lại quy trình của Đức Phật: [...] Chánh Niệm ---> Chánh Định ---> Chánh Trí ---> Chánh Giải Thoát.
Và tình hình hiện nay là đang "kẹt xe" ở chỗ "Chánh Niệm". Do bị kẹt xe nên các tài xế có khuynh hướng quẹo trái, quẹo phải để tìm đường thoát thân. Và sau đây là những phản ứng:
1. Lotus 123 phản ứng là "Kệ Nó". Nhưng chiêu thức "Kệ Nó" có dẫn hành giả đến "Chánh Định" hay không?
Không - vì tâm nó vẫn cứ quậy.
2. Tu sĩ khác là dùng chiêu: Nhìn vào cái cảm giác khi có, khi không; khi còn, khi mất; mà chú ý đến "Tuệ Sinh Diệt". Điều này có dẫn đến "Chánh Định" không?
Cũng không luôn: Vì tâm nó vẫn cứ quậy.
Xin mời bà con đưa những chiêu thức khác (qua các bài giảng) Và coi những chiêu thức này có dẫn đến "Chánh Định" hay không?
Nhắc lại quy trình của Đức Phật: [...] Chánh Niệm ---> Chánh Định ---> Chánh Trí ---> Chánh Giải Thoát.
Và tình hình hiện nay là đang "kẹt xe" ở chỗ "Chánh Niệm". Do bị kẹt xe nên các tài xế có khuynh hướng quẹo trái, quẹo phải để tìm đường thoát thân. Và sau đây là những phản ứng:
1. Lotus 123 phản ứng là "Kệ Nó". Nhưng chiêu thức "Kệ Nó" có dẫn hành giả đến "Chánh Định" hay không?
Không - vì tâm nó vẫn cứ quậy.
2. Tu sĩ khác là dùng chiêu: Nhìn vào cái cảm giác khi có, khi không; khi còn, khi mất; mà chú ý đến "Tuệ Sinh Diệt". Điều này có dẫn đến "Chánh Định" không?
Cũng không luôn: Vì tâm nó vẫn cứ quậy.
Xin mời bà con đưa những chiêu thức khác (qua các bài giảng) Và coi những chiêu thức này có dẫn đến "Chánh Định" hay không?
---
Thầy Tibu trả lời tiếp theo:
Quy trình mười Chánh [trích từ Kinh Đại Bốn Mươi Trung Bộ Kinh (tập 3)] Nó chạy mà phát chóng mặt luôn!
Sự tiến triển tâm linh theo con đường mười chánh:
Suy nghĩ của đệ là ... bắt đầu từ "Chánh Kiến" thì tu sĩ có nhiều khác biệt về cái "Chánh Kiến". Cho tới khi cái "Chánh Kiến" đủ sức mạnh rồi thì "Chánh Tư Duy" phát sinh, tới đây thì sai biệt cũng còn nhiều đối với từng tu sĩ một.
Rồi đến cái "Chánh Ngữ" là bắt đầu có rất là nhiều điều giống nhau. So với thời gian "Chánh Kiến", thì sự khác biệt ở đây giữa các tu sĩ là không còn bao nhiêu: Hầu như đều ăn nói hiền hoà hơn! Rồi đến "Chánh Nghiệp" cho tới "Chánh Tin Tấn" thì hầu như là giống nhau: Ai cũng chí cốt làm ăn theo kiểu lương thiện, lo sợ phạm những lỗi lầm nhỏ ...
Và khi tới "Chánh Niệm" thì ... mỗi người lại mỗi kiểu!
Đây là cái bất hợp lý!
Đúng ra theo cái đà tiến triển tâm linh ở trên thì: Khi tới "Chánh Niệm" là phải rất là giống nhau! Chớ không thể nào mỗi người, mỗi kiểu được! Vì đường đi đã gần vào cái tâm rồi!
Sự tiến triển tâm linh theo con đường mười chánh:
Suy nghĩ của đệ là ... bắt đầu từ "Chánh Kiến" thì tu sĩ có nhiều khác biệt về cái "Chánh Kiến". Cho tới khi cái "Chánh Kiến" đủ sức mạnh rồi thì "Chánh Tư Duy" phát sinh, tới đây thì sai biệt cũng còn nhiều đối với từng tu sĩ một.
Rồi đến cái "Chánh Ngữ" là bắt đầu có rất là nhiều điều giống nhau. So với thời gian "Chánh Kiến", thì sự khác biệt ở đây giữa các tu sĩ là không còn bao nhiêu: Hầu như đều ăn nói hiền hoà hơn! Rồi đến "Chánh Nghiệp" cho tới "Chánh Tin Tấn" thì hầu như là giống nhau: Ai cũng chí cốt làm ăn theo kiểu lương thiện, lo sợ phạm những lỗi lầm nhỏ ...
Và khi tới "Chánh Niệm" thì ... mỗi người lại mỗi kiểu!
Đây là cái bất hợp lý!
Đúng ra theo cái đà tiến triển tâm linh ở trên thì: Khi tới "Chánh Niệm" là phải rất là giống nhau! Chớ không thể nào mỗi người, mỗi kiểu được! Vì đường đi đã gần vào cái tâm rồi!
---
Đa ta chú Tibu đã đả thông tư tưởng cho lotus123 qua bài viết mới "Nimita? Ồ Thật Giản Dị"
Cháu có thử nói mới lòi cái ngu của cháu ra, rồi khi đã thấy cái ngu này, thì tự sửa và tiếp tục tu học.
Cháu có thử nói mới lòi cái ngu của cháu ra, rồi khi đã thấy cái ngu này, thì tự sửa và tiếp tục tu học.
Thầy Tibu trả lời:
Lấy Vi Diệu Pháp mà đo các cách tu hành khác là ... hết chạy.
Phương pháp đo là tu sĩ tập cho ra và biết lộ trình của một tâm thức.
Sau đó là dùng Tốc Hành Tâm (luồng Javana) để định mức các cách tu hành qua cái "barem" của bảy chập tư tưởng (Chuẩn bị, Thuận thứ, Cận hành, Chuyển tánh, An chỉ, Đạo quả 1, Đạo quả 2) này là ... hết chạy.
Chìa khóa của Vi Diệu Pháp là cái luồng Javana này.
Để ý: Từ lúc Phật Pháp được ghi trên sách vở: Không có ai khai triển cách áp dụng cái luồng Tốc Hành Tâm này hết! Thế mới lạ chớ!
Phương pháp đo là tu sĩ tập cho ra và biết lộ trình của một tâm thức.
Sau đó là dùng Tốc Hành Tâm (luồng Javana) để định mức các cách tu hành qua cái "barem" của bảy chập tư tưởng (Chuẩn bị, Thuận thứ, Cận hành, Chuyển tánh, An chỉ, Đạo quả 1, Đạo quả 2) này là ... hết chạy.
Chìa khóa của Vi Diệu Pháp là cái luồng Javana này.
Để ý: Từ lúc Phật Pháp được ghi trên sách vở: Không có ai khai triển cách áp dụng cái luồng Tốc Hành Tâm này hết! Thế mới lạ chớ!
---
Thầy Tibu trả lời tiếp theo:
Mấy ngày nay đi tìm coi trong sách có lúc nào tác giả tìm được mối liên lạc giữa "Chánh Niệm" và "Chánh Định" không? Cho tới giờ thì cũng mù mờ chưa có sách nào nói rõ chuyện này. Cuốn Đức Phật và Phật Pháp thì có nói tới:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-dp&pp/dp&pp36.htm
Có điều là không biết để cái đề mục hay là cái điểm đó ... ở đâu?
Cũng có gặp một cuốn kinh nói về chuyện "Chánh Định" nhưng khi dùng chữ "Quán" thì lại không định nghĩa "Quán" là cái gì và "Quán" ra làm sao?
Như vậy thì không có ngõ nào vào được "Chánh Định".
Một ví dụ cho rõ nghĩa:
1. Hỏi: Thầy quán coi con tu bằng cách nào thì hợp?
Nếu mà Thầy dùng cách "Ngẫm Nghĩ Cẩn Thận" để mà lựa chọn cho người này một pháp môn thì ... trật lất liền!
2. Hỏi: Thầy cho con xin đề mục để thiền định.
Thì bằng cách nào mà Thầy có thể "Lấy Trí Tuệ mà soi sáng để có thể chiếu kiến sự lý" để rồi có thể cho ra cái đề mục hạp với người này?
Tất nhiên, cho tới đây nếu nói về sách vở thì những vị tiền bối chỉ có thể nói tới như trên là hết mức.
Sự hiếm hoi của những người "làm được":
Biến cố có thể nói là lớn nhất là khi đệ gặp được một cư sĩ mà đắc quả A La Hán và sẽ nhập diệt vào kiếp này với quả vị "Độc Giác Phật".
Khổ nỗi là vì quả vị "Độc Giác Phật" nên cư sĩ này gặp khó khăn rất là lớn khi truyền đạt kinh nghiệm tâm linh của mình cho người khác nghe.
Và khi đệ đến từ giã cư sĩ này để đi Mỹ thì anh ấy lấy cái passport của mình ra, vừa xé, vừa nói:
- - Anh đi thì tui ở lại.
Như vậy năm 1991, ở Việt Nam: Chỉ có hai người làm được mà thôi!
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-dp&pp/dp&pp36.htm
Trích dẫn
Định (samadhi) là giữ tâm an trụ vào một điểm, gom tâm vào đề mục, và hoàn toàn không để ý gì khác, ngoài đề mục ấy.
.Có điều là không biết để cái đề mục hay là cái điểm đó ... ở đâu?
Cũng có gặp một cuốn kinh nói về chuyện "Chánh Định" nhưng khi dùng chữ "Quán" thì lại không định nghĩa "Quán" là cái gì và "Quán" ra làm sao?
Trích dẫn
Tự điển Phật Học Việt-Anh Thiên Phúc
Quán: Ngẫm nghĩ cẩn thận
Quán Chiếu: Lấy trí tuệ mà soi sáng hay chiếu kiến sự lý.
Quán: Ngẫm nghĩ cẩn thận
Quán Chiếu: Lấy trí tuệ mà soi sáng hay chiếu kiến sự lý.
Như vậy thì không có ngõ nào vào được "Chánh Định".
Một ví dụ cho rõ nghĩa:
1. Hỏi: Thầy quán coi con tu bằng cách nào thì hợp?
Nếu mà Thầy dùng cách "Ngẫm Nghĩ Cẩn Thận" để mà lựa chọn cho người này một pháp môn thì ... trật lất liền!
2. Hỏi: Thầy cho con xin đề mục để thiền định.
Thì bằng cách nào mà Thầy có thể "Lấy Trí Tuệ mà soi sáng để có thể chiếu kiến sự lý" để rồi có thể cho ra cái đề mục hạp với người này?
Tất nhiên, cho tới đây nếu nói về sách vở thì những vị tiền bối chỉ có thể nói tới như trên là hết mức.
Sự hiếm hoi của những người "làm được":
Biến cố có thể nói là lớn nhất là khi đệ gặp được một cư sĩ mà đắc quả A La Hán và sẽ nhập diệt vào kiếp này với quả vị "Độc Giác Phật".
Khổ nỗi là vì quả vị "Độc Giác Phật" nên cư sĩ này gặp khó khăn rất là lớn khi truyền đạt kinh nghiệm tâm linh của mình cho người khác nghe.
Và khi đệ đến từ giã cư sĩ này để đi Mỹ thì anh ấy lấy cái passport của mình ra, vừa xé, vừa nói:
- - Anh đi thì tui ở lại.
Như vậy năm 1991, ở Việt Nam: Chỉ có hai người làm được mà thôi!
---
Thầy Tibu trả lời tiếp theo:
Như vậy là chưa có ai tìm ra được sự chuyển tiếp giữa "Chánh Niệm" và "Chánh Định". Và dĩ nhiên vì chưa có thể vào được "Chánh Định" thì khi định nghĩa danh từ này các học giả cứ đoán mò và chưa có ai đưa ra được cái đặc điểm của một hành giả khi họ nhập vào "Chánh Định". Từ đó mà bàn về "Chánh Trí" thì những kết quả này dễ đưa tới những nghi ngờ:
Những người có tâm đạo này thường hay lập luận như sau:
Những người kia thi đỗ bằng này bằng nọ mà họ còn chưa dám đề cập đến mà bọn này là "cỡ nào" mà dám ăn nói lung tung như vậy?
Rào đón như vậy, cũng không ngoài mục đích là nói lên cái tính chất liên quan chặt chẽ của ba tình trạng tâm linh cao cấp: "Chánh Niệm", "Chánh Định" và "Chánh Trí".
Cũng xin nhắc lại là: Những kết quả này nọ do cái "Chánh Trí" mà ra là vì do "Cái Không Tham" mà có.
Có nghĩa là:
Nếu người hỏi "do không tham mà hỏi" và người tìm cũng do "không tham mà tìm" thì kết quả thông thường là trúng đến 98%. 2% còn lại là do người coi chưa giữ giới cho ngon lành lắm.
Như là trong mục "Chia Vui" thì kết quả cho tới bây giờ: Là chưa có sai! (Có trật là vì Nhí bên Mỹ thấy là "con gái" nhưng khi nói, thì lại nói là "con trai" lý do: Do ngôn ngữ mà ra)
.
Cũng có nghĩa là: Một trong hai người này mà "tham" thì kết quả là "trật lất".
Những người có tâm đạo này thường hay lập luận như sau:
Những người kia thi đỗ bằng này bằng nọ mà họ còn chưa dám đề cập đến mà bọn này là "cỡ nào" mà dám ăn nói lung tung như vậy?
Rào đón như vậy, cũng không ngoài mục đích là nói lên cái tính chất liên quan chặt chẽ của ba tình trạng tâm linh cao cấp: "Chánh Niệm", "Chánh Định" và "Chánh Trí".
Cũng xin nhắc lại là: Những kết quả này nọ do cái "Chánh Trí" mà ra là vì do "Cái Không Tham" mà có.
Có nghĩa là:
Nếu người hỏi "do không tham mà hỏi" và người tìm cũng do "không tham mà tìm" thì kết quả thông thường là trúng đến 98%. 2% còn lại là do người coi chưa giữ giới cho ngon lành lắm.
Như là trong mục "Chia Vui" thì kết quả cho tới bây giờ: Là chưa có sai! (Có trật là vì Nhí bên Mỹ thấy là "con gái" nhưng khi nói, thì lại nói là "con trai" lý do: Do ngôn ngữ mà ra)
.Cũng có nghĩa là: Một trong hai người này mà "tham" thì kết quả là "trật lất".
---
Thầy Tibu trả lời tiếp theo:
Ngay cả tự điển mà còn định nghĩa mù mờ như trên thì làm sao mà đem ra thực hành được?
Điều tra:
Trong khi đọc kinh của Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, hầu như đều thiếu sót một vấn đề!
Đó là chuyện gì đã xảy ra ngay vào những giây phút đầu tiên khi học trò gặp người hướng dẫn. Những bài kinh cho dù là có vẻ là chi tiết như thế nào đi nữa! Thì khi đọc cho thật là kỹ đều thiếu sót cái chi tiết này!
Và đây cũng là lý do mà bọn hậu sinh tụi mình bị chới với khi vào "dây chuyền sản xuất thánh nhân" qua 10 công đoạn (con đường mười chánh) như đã nói ở những bài trước:
Để rồi từ đó mới sinh ra tình trạng là "Chánh Niệm" thì mỗi người mỗi kiểu! Chưa nói về cái "Chánh Định".
Người theo đạo Phật làm như có vẻ là gì cũng biết! Nhưng khi đưa ra một vấn đề cụ thể nào đó là cứ nói quanh co, uốn éo như con lươn. Cái khuyết tật này là do sự bế tắc giữa "Chánh Niệm" và "Chánh Định".
Từ Phàm sang Thánh cũng từ cái chỗ này đây.
Từ lý thuyết suông qua Thực chứng cũng là đây.
Tại sao lại thiếu?
Khi được chỉ dạy như vậy thì những Phật Tử vào thời Đức Phật Thích Ca đều cho rằng:
Đây là điều ai cũng làm và ai cũng biết. Nên khi kết tập thì không có ai để ý đến chi tiết này! Do vậy mà không có ai ghi vào cả, mà chỉ ghi lại những cái thuộc về "Đại Sự" không mà thôi!
Đau một cái, là vì thiếu cái chìa khóa này, mà những chuyện "Đại Sự", theo thời gian, đã trở thành chuyện "Lý Thuyết", chuyện nói chơi cho vui! Chớ không phải là "những thực chứng có khả năng biến phàm thành Thánh"
Có thể nói không ngoa đây là thời kỳ phục hưng Phật Giáo vì nguyên con đường Giải Thoát sẽ được phơi bày qua câu khẩu quyết căn bản được truyền từ miệng người chỉ đường qua lỗ tai của người theo học vào ngay những giây phút đầu tiên!
Đó là câu:
Nên An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt.
Thực tế chứng minh là "tụi nhỏ" chỉ cần làm như vậy thôi (không có nhí nào đọc kinh cả, nhất là nhí bên Mỹ)! Mà chỉ có vài năm sau là từ "Phàm" chuyển thành "Thánh" và tụi nó đã có thể thực hành những chuyện mà tụi mình, "người lớn", cứ nhất định toàn là những chuyện nói chơi cho vui, chớ làm gì có ai mà có thể làm được! (như chuyện độ tử). Và tới đây sẽ là việc tìm những đề mục thiền định hạp với tu sĩ!
Điều mà ngay cả Ngài Tăng Thống Nãrada cũng chỉ ghi lại một cách ... buồn bã là:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-dp&pp/dp&pp36.htm
[...] trích đoạn:
Trước khi thực hành thiền tập, hành giả nên thận trọng quan sát đề mục tham thiền. Thuở xưa, muốn hành thiền phải tìm đến sự hướng dẫn của một vị thầy có khả năng và nhờ sự giúp đỡ của vị này, chọn một đề mục thích hợp với bẩm tánh mình. Ngày nay, hành giả phải tự mình xem xét lấy và chọn đề mục mà mình cho là thích hợp nhất.
[...]hết phần trích đoạn
Có nghĩa là ngày nay "không còn ai có khả năng nữa, kể cả tui"!
Điều tra:
Trong khi đọc kinh của Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, hầu như đều thiếu sót một vấn đề!
Đó là chuyện gì đã xảy ra ngay vào những giây phút đầu tiên khi học trò gặp người hướng dẫn. Những bài kinh cho dù là có vẻ là chi tiết như thế nào đi nữa! Thì khi đọc cho thật là kỹ đều thiếu sót cái chi tiết này!
Và đây cũng là lý do mà bọn hậu sinh tụi mình bị chới với khi vào "dây chuyền sản xuất thánh nhân" qua 10 công đoạn (con đường mười chánh) như đã nói ở những bài trước:
Để rồi từ đó mới sinh ra tình trạng là "Chánh Niệm" thì mỗi người mỗi kiểu! Chưa nói về cái "Chánh Định".
Người theo đạo Phật làm như có vẻ là gì cũng biết! Nhưng khi đưa ra một vấn đề cụ thể nào đó là cứ nói quanh co, uốn éo như con lươn. Cái khuyết tật này là do sự bế tắc giữa "Chánh Niệm" và "Chánh Định".
Từ Phàm sang Thánh cũng từ cái chỗ này đây.
Từ lý thuyết suông qua Thực chứng cũng là đây.
Tại sao lại thiếu?
Khi được chỉ dạy như vậy thì những Phật Tử vào thời Đức Phật Thích Ca đều cho rằng:
Đây là điều ai cũng làm và ai cũng biết. Nên khi kết tập thì không có ai để ý đến chi tiết này! Do vậy mà không có ai ghi vào cả, mà chỉ ghi lại những cái thuộc về "Đại Sự" không mà thôi!
Đau một cái, là vì thiếu cái chìa khóa này, mà những chuyện "Đại Sự", theo thời gian, đã trở thành chuyện "Lý Thuyết", chuyện nói chơi cho vui! Chớ không phải là "những thực chứng có khả năng biến phàm thành Thánh"
Có thể nói không ngoa đây là thời kỳ phục hưng Phật Giáo vì nguyên con đường Giải Thoát sẽ được phơi bày qua câu khẩu quyết căn bản được truyền từ miệng người chỉ đường qua lỗ tai của người theo học vào ngay những giây phút đầu tiên!
Đó là câu:
Nên An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt.
Thực tế chứng minh là "tụi nhỏ" chỉ cần làm như vậy thôi (không có nhí nào đọc kinh cả, nhất là nhí bên Mỹ)! Mà chỉ có vài năm sau là từ "Phàm" chuyển thành "Thánh" và tụi nó đã có thể thực hành những chuyện mà tụi mình, "người lớn", cứ nhất định toàn là những chuyện nói chơi cho vui, chớ làm gì có ai mà có thể làm được! (như chuyện độ tử). Và tới đây sẽ là việc tìm những đề mục thiền định hạp với tu sĩ!
Điều mà ngay cả Ngài Tăng Thống Nãrada cũng chỉ ghi lại một cách ... buồn bã là:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-dp&pp/dp&pp36.htm
[...] trích đoạn:
Trước khi thực hành thiền tập, hành giả nên thận trọng quan sát đề mục tham thiền. Thuở xưa, muốn hành thiền phải tìm đến sự hướng dẫn của một vị thầy có khả năng và nhờ sự giúp đỡ của vị này, chọn một đề mục thích hợp với bẩm tánh mình. Ngày nay, hành giả phải tự mình xem xét lấy và chọn đề mục mà mình cho là thích hợp nhất.
[...]hết phần trích đoạn
Có nghĩa là ngày nay "không còn ai có khả năng nữa, kể cả tui"!
---
TRÍCH TỪ NGUỒN: