An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt

An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt

Bài Đọc Thêm    Xem 854     5 năm trước

An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt


Một kỹ thuật mà cho đến nay, có thể nói là đã gần như là thất truyền trong Phật Giáo. Giá trị: Anh Sơn (A La Hán ở Đà Lạt) đã từng than thở:

“Tui mà biết được cái kỹ thuật An trú chánh niệm đằng trước mặt và sự mầu nhiệm của nó thì tui đã không uổng phí thời gian trong vòng 30 năm để tu tập tầm bậy tầm bạ.”

An Trú Chánh Niệm Với Đề Mục Là Chấm Đỏ

An trú chánh niệm đằng trước mặt có đề cập đến trong kinh điển nhưng không có một ai biết được hết cái giá trị siêu phàm vượt thánh của nó! Vì sự thật là: rất ít ai biết cách thức an trú chánh niệm đằng trước mặt!

Nên nhớ rằng: Kinh Majjhima Nikaya (trung bộ tập 3) kinh số 107. Kinh Ganaka Moggallàna (Ganakamoggallàna sutta) có đề cập đến một trình tự tu tập và trong đó, Đức Phật cũng có nhắc đến chuyện chú ý tỉnh giác khi đi đứng nằm ngồi và sau đó là quy trình "an trú chánh niệm đằng trước mặt" và chỉ có bấy nhiêu mà thôi, còn phần kỹ thuật thì không ai biết nó ra làm sao cả!

I. An Trú Chánh Niệm vs. Chú Tâm:

"An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt". Nó là một trời một vực với cái chuyện chú tâm vào hành động của mình. Cái chú tâm vào hành động của mình, nó không dẫn mình đi tới đâu hết vì đó là giai đoạn đầu của "Chánh Niệm".

Phân tích ra thì thấy liền:

Khi mình chú tâm vào một mục tiêu Đang Di Động (ở đây là hành động của mình) thì tâm của mình cũng Di Động theo mục tiêu đó.

Vì hành động này vẫn còn là Động nên không thể dẫn dắt mình vào Chánh Định được.

II. Chánh định:

Là an trú và làm cho đề mục xuất hiện như thật đằng trước mặt bằng sự tập trung tư tưởng (có bốn mức độ sâu dầy riêng biệt từ Sơ tới Tứ thiền). Ví dụ: Tu sĩ nhắm mắt lại, và tập trung tư tưởng về một ngọn lửa bằng cách: vẽ nó bằng trí tưởng tượng của mình. Cho tới khi: Linh ảnh của ngọn lửa xuất hiện đằng trước mặt mình rõ ràng như thật (nên nhớ là chỉ có một ngọn lửa thôi, chớ không có đèn đuốc gì ở dưới đó cả!).

Có thể nói "Chánh Định" được hiểu theo định nghĩa sau đây: "An trú chánh niệm đằng trước mặt", là một cách... đánh vần và ghép chữ khi hành giả gặp chữ "Quán" trong các công thức để vào các mandala (vòng phép hay còn gọi là đàn pháp).

Để quán cho ra hồn thì hành giả phải có một trình độ tập trung tư tưởng rất là cao. Thể hiện bằng một tâm lực rất là mạnh và kiên cố. Có nghĩa là một khi đã tập trung vào một đề tài hay đề mục nào, thì hành giả rơi ngay vào tình trạng "quên rằng mình đang ở đâu, và mình không còn nghe được những tiếng động bên ngoài nữa".

Với hai tình trạng trên, hành giả có thể khẳng định rằng mình nay đã có một định lực rất là vững bền. Nếu so sánh với khi hành giả đang ra sức học một ngôn ngữ mới thì hành giả phải qua những bước sau đây:

-- Cách biết mặt chữ.

-- Cao hơn một tý là cách ghép chữ và đánh vần.

-- Cao hơn một tý nữa là cách tránh lỗi chính tả.

-- Cao cấp nhất là cách hành văn sao cho mạch lạc, dễ hiểu, với đầy đủ dấu chấm câu.

Với bốn yếu tố trên, hành giả có thể tự hào rằng mình đã rành cái ngôn ngữ đó. Thì ngôn ngữ tâm linh cũng phải qua bốn trình độ của sự nhập chánh định:

1. Sơ Thiền: đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt lâu khoảng 12 giây.

2. Nhị Thiền: đề mục xuất hiện lâu hơn một tý: hơn 12 giây, và có thể kéo dài đến 24 giây.

3. Tam Thiền: thì sự xuất hiện lại lâu hơn trên 24 giây và sẽ biến mất vào khoảng 70 giây.

4. Tứ Thiền: thì sự xuất hiện lại lâu hơn: đề mục xuất hiện trên 70 giây.

Đến trình độ Tứ Thiền thì hành giả mới có đủ khả năng để... quán cho ra một cái gì đó. Chưa đến trình độ này thì chỉ là... nói không mà thôi! Chớ chưa có thể làm được gì cả. Do vậy mà đệ được các Ngài mách nước cho một công thức chính để có thể vào bất cứ mandala (vòng phép hay đàn pháp) nào. Có thể nói đây là cách hành pháp thuộc thế hệ thứ hai về Mật Tông.

Và cũng từ đó đệ mới biết rằng:

Khi "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt" thì phép lạ liền xảy ra.

Kế đó, là cảnh "Tức nước vở bờ":

III. Quán Pháp trên Pháp:

1. Nhắm mắt 100%, tưởng tượng cái tư thế mình đang nằm/ngồi trên ghế hay trên giường. Khi đã thiện xảo về phép "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt" rồi thì hành giả có thể mường tượng ra cái thân mình đang đi trên hè phố.

2. Niệm: "Buồn à! Buồn à!"

3. Cảm giác buồn rầu y như cái bánh xe bị xì hơi: Cảm giác buồn nó giảm một cái... vèo! Đúng là phép lạ Vipassana

4. Hành giả được ngay cái tính miễn nhiễm ở trình độ buồn này.

Có nghĩa là Hành giả sẽ bị buồn lại và chỉ buồn khi cái buồn nó nặng nề hơn tình trạng này. Còn nếu nó nhẹ hơn hay bằng thì cũng chỉ mỉm cười và dư sức qua cầu.

Như vậy, hai cách quán kia cũng cùng công thức.

TB: Cũng y như Ngài U Silanda đã đề cập: Chánh Định lại nằm ngay trung gian của Chánh Niệm và Chánh Huệ nhưng Ngài lại không miêu tả cái kỹ thuật nó ra làm sao.

IV. Khi niệm Thân:

Sau một thời gian thực tập và tu sĩ đã tỉnh giác được rồi, thì kế đến là phần kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt trên "Thân" nó là như thế này:

1. Bước thứ nhất:

Tu sĩ nhắm mắt 100% và nhìn chăm chăm về hướng đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và dùng trí tưởng tượng của mình, tưởng tượng ra một cái hình ellipse (hột vịt mà hai đầu đều bằng nhau) dựng đứng. Thông thường thì khi hình này hiện ra thì đã có một hình ảnh (mờ mờ) của một Con Người ngồi theo thế kiết già và bận áo Thầy Chùa màu vàng. Như vậy trong kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt với đề mục là "Thân" thì hành giả phải thấy được hai 2 thành phần của Con Người:

a. Thành phần Hào Quang (là phần không gian trong cái hình ellipse)

b. Và phần thân thể là cái hình Con Người bận áo Thầy Chùa, đầu trọc ngồi kiết già ở trong cái hình ellipse đó.

1.1. Ý nghĩa:

Tu sĩ đang bận áo Chánh Pháp và đang thực tập về cách quán hay an trú chánh niệm đằng trước mặt với đề mục là "Thân" với mục đích là ly khổ (cái đầu trọc)

1.2. Trình độ:

- Bước thứ nhất (Thấp): Hành giả dùng trí tưởng tượng của mình và bằng cái nhìn chăm chăm vào cái linh ảnh đó và... tô (sơn) nó lên, và làm cho nó thật là rõ, khi cái hình nó nổi lên rõ ràng thì đó là dấu hiệu báo rằng bước thứ nhất đã tạm được

- Bước thứ nhì (Cao): Hành giả dùng trí tưởng tượng và... thấy luôn cả bộ xương. Đây là trình độ cao nhất mà hành giả có thể an trú chánh niệm đằng trước mặt trên đề mục là "Thân".

1.3. Khó khăn:

Khó vô cùng, vì nó đòi hỏi "nguyên con cái tâm" (Vi tế tâm và Thô Tâm) phải tham gia vào việc quán hay an trú chánh niệm đằng trước mặt. Do vậy mà tu sĩ phải thật là chú tâm vào công thức quán này, thì nó mới chịu ra. Và phải kiên định lập trường (phải tập cho xong) cũng như tinh tấn đến cao độ, có thể nói là tập "một mất một còn" với nó... thì mới xong cái phần căn bản này!

1.4. Nhận Xét:

1.4.1. Kỳ lạ là: Tuy rằng tu sĩ, đang nằm, hay ngồi trên cái ghế, để quán thì lúc nào hình ảnh của Con Người trong cái hình ellipse cũng đều ngồi ở tư thế Kiết Già! Và lúc nào cũng bận đồ cà sa màu vàng và đầu lúc nào cũng là đầu trọc.

1.4.2. Một khi cái phần căn bản trên đã làm xong thì khi áp dụng kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt vào Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì chỉ là trò hề! Nó rất là dễ làm và có kết quả có thể nói là rất là tức thời!

1.5. Áp dụng:

1.5.1. Hơi thở: áp dụng cho cả hai trình độ (thấp và cao), khi an trú chánh niệm đằng trước mặt thì tu sĩ sẽ thấy rằng: khi mình thở "ở ngoài này" thì cái ông đang ngồi xếp bằng đó cũng thở y chang như mình! Sự hoạt động đồng bộ này là dấu hiệu của "nguyên con cái tâm" nó đang học và khi nó học thì nó hiểu rằng: Tất cả đều có, khi còn cái phòng xẹp này! Và tất cả sẽ biến mất, khi không còn cái phòng xẹp này nữa (dĩ nhiên).

Mở ngoặc:

Trước đây chỉ có cái "Thô Tâm" nó hiểu mà thôi, còn cái "Vi Tế Tâm" thì nó cứ lăng xăng nên sự hiểu biết này chưa có đủ sức mạnh để ngăn cản những sự xé rào (bỗng dưng mình cảm thấy ưa cái này, thích cái kia), và nhất là những cơn bùng dậy của Tham, Sân, Si sau khi đã... ngủ ngầm một thời gian! Nay, cũng là bổn cũ soạn lại, nhưng lần này thì có cái khác là: Nguyên con cái tâm nó biết và một khi nó biết rõ là như vậy, thì nó tự điều chỉnh. Nên chỉ cần vài tuần, hay vài ngày thì nó đã đủ sức mạnh để hiểu rõ cái tình trạng "Vô Duyên" hay sự "Lãng Xẹt" khi mình tham cái này, giận cái kia, hay thích cái nọ! Ái mà dứt được rồi, thì cái gì mà còn?

Đóng ngoặc.

Kết quả:

Tập như vầy thì cũng đã đủ để siêu vượt thế gian rồi.

1.5.2. Đi (Đứng, Nằm, Ngồi): Chỉ áp dụng cho trình độ cao, hành giả vừa đi vừa quán thấy nguyên cả bộ xương mình cũng đang đi, y chang như mình đang đi ở... ngoài này!

1.5.2.1. Trí Tuệ: Cả bộ xương mà đi đứng nằm ngồi thì rõ ràng là tu sĩ hết còn cái nhìn ở lớp da (ai cũng biết cái nhìn này tạo ra sự phân biệt: có Nam, có Nữ, có Già, có Trẻ, có Đẹp, có Xấu,...) mà nó đã vào tới tận cùng xương tủy. Chỉ cần nguyên con cái tâm (gồm cả hai phần: Vi Tế tâm và Thô Tâm) mà thấy được như vậy thì tự nó hiểu rằng không có Nam, không có Nữ, không có Già, không có Trẻ,... vì vậy mà nguyên con cái tâm nó dứt được hết các phân biệt này nọ.

1.5.2.2. Kết quả: đi coi vũ sexy thì chỉ thấy bộ xương nó cục cựa, nhìn thấy người đẹp cười thì cũng chỉ thấy có bộ xương nó cười. Tham ái tự dứt: A Na Hàm và A La Hán trong tầm tay. Tập tới đây thôi cũng là đủ rồi! Không cần tập thêm cái gì nữa cả.

Chuyện bên lề: Một cô ở Utah đang tập tới đây thì bỗng nhiên có nhận xét rằng: "Chú ơi, con đang tập cái chú đang nói đó! Nhưng sau đó thì cái chuyện "Vợ Chồng" nó trở nên lảng xẹt à! Sao nó tự nhiên, con thấy nó dửng dưng dễ sợ luôn!" Đệ trả lời: "Thì chỉ có thằng điên, con khùng nó mới mê cái... bộ xương mà thôi! Con, thì chú thấy con đâu có điên gì đâu! Nên nó là như vậy đó!"

1.5.3. Thọ, Tâm, Pháp: Ba cái này rất là dể làm! Chỉ cần tu sĩ chú ý đến cái phần không gian trong cái hình ellipse (cái hào quang).

Nguyên tắc: Một khi mà nguyên con cái tâm nó đã biết thế nào là đẹp thế nào là xấu thì nó tự động không thèm tham gia vào những hành động hay những suy nghĩ dẫn đến những cái xấu nữa! Y như tình trạng đem cứt mà để lên bàn thờ vậy! Nguyên con cái tâm nó không chấp nhận và nó cũng không làm được như vậy luôn.

Thực tế, khi an trú chánh niệm đằng trước mặt của "Thân trên Thân" thì nó đã tự động dẫn đến cái chuyện không còn Tham, Sân, hay Si rồi! Nhưng để gọi là "đóng chốt" luôn cái tình trạng này, nên các tu sĩ khác cũng đã cẩn thận cho "nguyên con cái tâm" nó học hỏi và hiểu biết luôn với mục đích là để chừa luôn, không còn thèm Tham Sân Si nữa: Bằng cách cho nguyên con cái tâm nó hiểu rằng những chuyện gì sẽ xảy ra khi mình Tham, Sân và Si.

1.5.3.1. Thực hành:

Cho tới bây giờ thì khó có cơ hội để mà Sân hận được! Nên chỉ còn hai cách:

1.5.3.1.1. Nhìn người ta đang Sân Hân hay Tham: Sau đó thì nhìn hào quang của người đó. Tu sĩ sẽ thấy nó dơ như cứt vậy! Chỉ cần một lần thôi thì nguyên con cái tâm nó chê và không thèm chơi luôn với ba cái Pháp lăng nhăng này.

1.5.3.1.2. Hồi tưởng lại hồi xưa: Mình cũng còn giận hờn như ai vậy và tác ý muốn thấy lại cái hào quang của mình ngay vào lúc đó: Liền thấy ông ngồi Kiết Già với cái đầu thì trọc mà lại có cái hào quang quá là dơ dáy! Dĩ nhiên chỉ cần làm một lần thôi thì cả nguyên con cái Tâm nó đã thuộc bài và không thèm chơi với ba cái pháp theo kiểu xịt bộp này nữa! Trên đây chỉ bàn đến kết quả tất nhiên của kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt.

Nay đệ lại bàn về sự mầu nhiệm của an trú chánh niệm đằng trước mặt đối với ác nghiệp quá khứ và nguyên tắc trả nghiệp! Muốn bàn về vấn đề này thì nên biết về vài thông số kỹ thuật mà đệ đã thực nghiệm qua: Tất nhiên là khi an trú chánh niệm đằng trước mặt thì tu sĩ sẽ có thể đo được sự xuất hiện lâu hay mau như thế nào của đề mục. Tuy rằng không chính xác cho lắm nhưng cũng gọi là tàm tạm.

Và sau khi nhìn lại từ trình độ Tứ Thiền thì đệ đã đúc kết ra được thời gian tối thiểu mà đề mục xuất hiện đằng trước mặt để xác định trình độ tâm linh của cá nhân đó như sau:

- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu tới 12 giây: Sơ Thiền

- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu từ 12 tới 40 giây: Nhị Thiền

- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu từ 40 tới 70 giây: Tam Thiền

- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu trên 70 giây: Tứ Thiền

Theo Kinh sách thì:

Tuổi thọ của Sơ Thiền: từ 1/3 đến 1 A Tăng Kỳ Kiếp [1 A Tăng Kỳ là: Một con số một với 47 con số không (từ điển Phật Học của Đoàn Trung Côn)]

(Và một kiếp là vài trăm vạn năm ở Trái Đất)

Tuổi thọ của Nhị Thiền: từ 2 đến 8 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.

Tuổi thọ của Tam Thiền: từ 12 đến 32 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.

Tuổi thọ của Tứ Thiền: từ 500 đến 16000 Đại A Tăng Kỳ Kiếp

Như vậy tuổi thọ này nó tính ra làm sao đối với một Con Người đang tu tập với cách an trú chánh niệm đằng trước mặt?

Ví dụ như là tu sĩ chỉ tới Sơ Thiền có 12 giây đồng hồ:

Phải hiểu rằng tu sĩ chỉ ở Sơ Thiền chỉ có 12 giây thôi và hiện tượng tuột định liền xảy ra. Lý do là do hết sức, hoặc là do độ nhập Chánh Định chưa có mạnh cho lắm vì chưa quen vậy thôi. Tuy vậy chỉ cần 12 giây vàng son này thôi thì tu sĩ đã có thể bao trùm vài ngàn kiếp ở Trái Đất thuộc về quá khứ!

Tại sao?

Mở ngoặc:

Đường trở nên cực kỳ trơn trợt, xin Các Bạn giảm vận tốc đọc lại thật là chậm và suy nghĩ cho kỹ:

Đóng ngoặc.

Lý do là vì tu sĩ chết ở Sơ Thiền 12 giây trước đó và tiếp tục sống lại liền ở đây! Do vậy mà cái tuổi thọ mà tu sĩ đã sống 12 giây ở Sơ Thiền, nó... lại bao trùm ngược về quá khứ, Có nghĩa là khi sống 12 giây ở Sơ Thiền thì tu sĩ đã sống tương đương với vài chục ngàn năm ở Trái Đất vào thời quá khứ!

Trả nghiệp:

Đối với một người không có tu hành (anh A):

Khi người này (anh A) bị ai đó đá một cú vào đít của mình, thì chỉ có một ý nghĩa duy nhất là: Vì kiếp trước anh A này đã có đá vào đít của người kia một lần! Và chỉ là như vậy mà thôi. Do vậy mà anh A rất là hận người đá vào đít của mình! Vì anh A đâu có biết nguyên nhân hồi kiếp trước đâu nè!

Đối với người tu tập theo cách an trú chánh niệm đằng trước mặt thì Nghiệp quả cũng sẽ tới với một cú đá vào đít, y như anh A đã bị! Nhưng vì âm hưởng của thời quá khứ (do tuổi thọ 12 giây ở Sơ Thiền) nên nghiệp quả còn mang một tính chất đặc biệt nữa là: Nó lại đại diện cho vài ngàn cú đá ở vào những kiếp quá khứ! Do vậy mà tu sĩ này nhận cú đá với nụ cười trên môi. Vì tu sĩ biết chắc rằng: Mình đã có dịp trả nghiệp vào thời quá khứ nhanh gấp vài ngàn lần so với một phàm phu!

Vì lý do đó mà Đức Phật Thích Ca chỉ nhắc chừng cho những tu sĩ mới tu, Ngài đã nói:

-- Ông bị muỗi cắn suốt đêm và ông ngủ không được à! Ông nên nhẫn nại...

11:14 PM 9/11/2007

Mến.


V. Phóng Tâm (Nghĩ bậy nghĩ bạ):

1. Nhắm mắt 100%

2. An trú Chánh Niệm đằng trước mặt bằng cách: tưởng tượng ra cái tư thế của chính mình (tư thế nằm hay ngồi) trên ghế hay giường.

3. Khi mình đã thấy rõ tư thế của mình rồi thì Niệm: Nghĩ bậy à! Nghĩ bậy à!

4. Cảm giác rúng động toàn thân, và liền sau đó là sự thanh tịnh.

Giải thích: khi an trú Chánh Niệm ra đằng trước mặt thì Thô Tâm và Vi Tế Tâm cùng hoạt động đồng bộ (Sự đồng bộ này sẽ ảnh hưởng đến cái hình ảnh mà Hành Giả thấy được. Có nghĩa là sự đồng bộ càng mạnh thì hình ảnh càng rõ ràng. Và khi mình niệm một tình trạng mất thằng bằng (ở đây là tình trạng "nghĩ bậy") thì lập tức có một sự tự điều chỉnh (Vô Sư Trí chăng?), chấn động tự điều chỉnh này ảnh hưởng từ cái hào quang, qua các trung tâm năng lực và vào hệ thần kinh. Sự rúng động này rất là mãnh liệt và có hiệu năng dập tắt tất cả những tạp nhiễm trải dài từ Thô Tâm và ảnh hưởng đến Vi Tế Tâm! Do cái tình trạng thấm sâu vào Vi Tế Tâm nên cái âm hưởng (ở đây là sự thanh tịnh) nó kéo dài rất là lâu. Trong ứng dụng này, thì sự thanh tịnh ập đến ngay sau khi mình mới niệm chỉ có ba lần.

Khác với khi mình niệm mà không an trú Chánh Niệm: Lúc này chỉ có Thô Tâm niệm mà thôi tuy rằng nó cũng biến mất nhưng nó có lại liền. Cách này là dậm chân tại chỗ y như khi nhảy đầm vậy: Cũng có này có nọ nhưng lại không đi đâu xa cả.

So sánh hai cách công phu trên, mình có thể nói là cách có An Trú Chánh Niệm đằng trước mặt y như cảnh một lực sĩ dùng xà beng thọc sâu xuống đất và bẩy hòn đá (thói quen hay tạp nhiễm) lên. Do cách này, hòn đá lung lay và có thể bị bật gốc. Còn cách niệm mà không an trú thì là cảnh người lực sĩ dùng sức của mình mà xô cục đá. Cục đá có thể lung lây nhưng không thể bậc gốc được.

VI. Hỷ Lạc

….Coi vậy chớ tài liệu này, và cũng như những tài liệu khác đều lại thiếu cái phần quan trọng bậc nhất đó là kỹ thuật "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt". Không có cái này thì không có cái cảm giác an vui theo cái kiểu tẩm ướt, tràng đầy, sung mãn y như kinh đã nói có nghĩa là tới trạng thái Sung mãn thì khi để ý đến cái đầu gối thì cũng thấy nói... vui. Cảm giác đặc biệt này chỉ dành cho những ai biết cách "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt". Mọi người khác thì không cách gì mà có được cái cảm giác An Vui một cách chắc nịch này.

VII. Nhất Tâm Bất Loạn

Nói gì thì nói, nhưng khi dùng Niệm để mà tu thì:

Nhất Tâm là phải thấy.

Không hay (or) là chưa Nhất Tâm là không thấy.

Nhất Tâm Bất Loạn là khi niệm cái gì là thấy cái đó.

Ví dụ như niệm A Di Đà Phật mà thấy ánh sáng là Nhất Tâm nhưng chưa... Bất Loạn được.

Nhưng khi niệm A Di Đà mà thấy được Ngài là Nhất tâm và Bất Loạn.

Còn niệm A Di Đà mà không thấy gì cả thì chỉ là Tạp Niệm, hay là niệm chưa có lực.

Muốn cho có lực thì phải biết "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt". Khi biết cách "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt" một cách "Nhu Nhuyễn" và "Dễ Sử dụng" thì trong bọn lubu có những oắt tỳ chưa sạch mũi xanh chỉ cần 1 niệm mà thôi thì những oắt tỳ này đã thấy Ngài A Di Đà Phật rồi. Điều này còn lẹ hơn cả trong kinh (Phải là 10 niệm).

Mặt khác bọn lubu cũng chơi cái trò luyện tập... "Thân Nhất Tâm".

Bài tập có ba trình độ:

1. Trình độ thường: Hành giả cầm cái xâu chuỗi và đi ngủ, sáng thức dậy thì vẫn cầm thì đó là trình độ sơ cấp của "Thân Nhất Tâm". Trong khi ngủ mà nếu rớt thì lại giựt mình thức dậy mà tìm cái xâu chuỗi: Đó là dấu hiệu đầu tiên của "Thân Nhất Tâm"

2. Bắt ấn và đi ngủ. Sáng thức dậy vẫn bắt ấn: Trình độ Trung bình của "Thân Nhất Tâm"

3. Giữ một thế ngủ, tay cầm xâu chuỗi, tay bắt ấn và đi ngủ: sáng thức dậy vẫn y chang như trước khi đi ngủ: "Trình độ cao đẳng của Thân Nhất Tâm".

Đức Bổn Sư ngủ với tư thế tự nhiên khi Ngài Nhập Tứ Thiền Hữu Sắc, có nghĩa là Ngài nằm tư thế Nhập Niết Bàn. Ngài cũng khởi sự nằm bình thường như bọn mình, nhưng tới khi Ngài nhập vào Tứ Thiền thì tự động thân thể của Ngài lại vào cái thế khi Ngài Nhập Niết Bàn.

Mến.

VIII. Tụi nhỏ tu hành

Sau khi thí nghiệm vào hai đứa con của tui, thì tui mới khám phá ra là ngay khi tuổi tụi nhỏ tới 7 tuổi thì đây là thời gian mà trí tưởng tượng của tụi nó phong phú nhất. Có nghĩa là khi tụi nhỏ tưởng tượng ra cái gì thì cái đó xuất hiện như thật ngay đằng trước mặt của tụi nó. Ngay thời điểm vàng son này mà có người tu sĩ nào có nghề chỉ cần chỉ cho tụi nó cách thức "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt" thì tụi nó phát triển ghê hồn lắm. Thật vậy, chỉ cần không tới một, hai tháng là tụi nhỏ đã có thể xâm nhập vào Thế Giới Tâm linh dễ dàng còn hơn mình... đi chợ nữa.

Tụi nhỏ có thể lấy lại cuộc sống thời kỳ còn ở Châu Atlantic. Có nghĩa là tụi nhỏ, không một trở ngại gì cả, có thể sống cùng một lúc ở hai thế giới: Thế Giới Thần Linh và Thế Giới Hiện Tại. Kết quả thật là ngoài sức tưởng tượng: Tụi nhỏ dần dần ít bệnh hoạn và sống rất là đàng hoàng, không quậy phá, rất trung thực và cực kỳ hiếu thảo. Hiện tượng chuyển hoá này hiệu nghiệm đến độ mà những gia đình có những đứa trẻ (mà, thông thường, ai cũng tưởng là tụi nó đều thuộc loại thượng căn) này đều có ý tưởng là: Nhờ Hai Lúa tui mở một trường để đào tạo những tài năng này... Nhưng câu chuyện không dễ dàng như vậy đâu…..

Kết quả: Bên Utah, Hai Lúa tui chỉ có chơi với hai gia đình: Cô Bé Hàng Xóm (với hai đứa con) và cô Không Nói Xạo (với một đứa con): Cả ba đều là tu giỏi và tu cao. Không những vậy mà ngay ngày tụi nhỏ thành Thánh Tăng thì bà mẹ cũng "bị" thành Thánh Tăng luôn. Cô "Không Nói Xạo" thì ngay lúc đó, còn "Cô Bé hàng Xóm" thì vài ngày sau đó. Bên Việt Nam, thì ngay đêm đó thì cả ba bà mẹ cũng bi cộng hưởng như trên luôn.

Mến.

Trích từ các Tập Tin

*****

1216
1.7680959701538 sec