
Độc Thoại
Độc Thoại
Thầy Tibu 24-10-2004
Nghe chuyển âm:
Diêm Hồ tỉnh, 24/10/2004
Thật là khó khi diễn tả một tình trạng tâm thức qua tờ giấy này. Càng khó hơn nữa khi tụi mình xa nhau gần nửa trái đất. Thế nhưng trong thực tế định luật cộng hưởng là một phép lạ thần sầu quỉ khốc nhất. Ở đây không gian, thời gian, sắc tộc, giới tính và phong tục đều không còn là những trở ngại nữa.
Thật vậy Thầy của tụi mình có để lại cho trần gian những quan niệm về sự thờ lạy, những quan niệm về sự tôn kính đối với ngài qua câu: người nào thực hành giáo pháp qua Bát Chánh Đạo… là những người kính trọng tui nhất!!! Bọn lu bu tụi mình đã ở lại lớp trên 2500 rồi. Đã thất lạc hàng đống bà con. Không biết giờ này họ trôi giạt nơi đâu và đang bị ác nghiệp vùi dập như thế nào. Thật là hiếm hoi khi chúng ta được làm người, được nghe những lời dạy bảo của ngài, được thực hành rập khuông theo vết chân của ngài. Tụi mình ai ai cũng đều có những sở trường và sở đoản, những… giới hạn về sự hiểu biết, những giới hạn về sự trình bày rành mạch một kinh nghiệm bản thân. Do vậy mà không tránh được sự khen chê chân thành của bạn bè, anh em.
Vốn là những người “thừa sai“ mà còn ở lại lớp trên 2500 năm thì bọn mình gần như không đủ khả năng để làm một lần hay trả nợ cho hết và giải thoát ngay trong 1 kiếp này như chính ngài đã nói. Vượt đèo, leo núi, thành lập kỹ lục này, hoàn thành kế hoạch kia… tất cả đều là con số không so với những người đang đi trên con đường tự thắng. Bọn mình là những tên lu bu chỉ mượn tạm cuộc đời để sống ghép mình vào những Giới, những Định và Huệ mà Ngài đã để lại qua kinh sách. Những viên xá lợi này đã được đánh bóng lại và lần đầu tiên được thông dịch qua ngôn ngữ Việt Nam, Những kỹ thuật, xảo thuật đã được áp dụng và được hệ thống hoá với ngôn ngữ bình dân. Những gạch đầu dòng của "bản tin" chỉ là những nét phác họa thô sơ của công việc "phóng đường" từ miền vô minh đến tình trạng "giải thoát rốt ráo". Do vậy mà trong lần độc thoại này tui ghi lại đây thêm một gạch đầu dòng nữa để gọi là thắp sáng một cái gì đó mà bọn mình còn lù mù.
1- Chấp và không chấp
Khi mình chấp có nghĩa là mình chỉ thấy hạn hẹp mà thôi. Còn không chấp có nghĩa là mình sẽ thấy cả nhân lẫn quả. Trong kiếp này, kiếp trước và vô lượng kiếp trước. Như vậy dù ít hay nhiều bọn mình vẫn chấp như thường. Sự chấp này có thể là những hiểu lầm chân thành của anh chị em bạn, khi thông qua ngôn ngữ hay hành động những người đi trước hay đã tu lâu rồi. Ngôn ngữ và hành động này còn bị “nghiệp sát” ngăn che nên những xác quyết chân thành đó có khi là không đúng luôn. Tuy vậy vì đây là những biểu hiện của chính mình (người mới tu) nên cũng được thông dịch là: những biểu hiện của cái Tôi hay bản ngã của chính mình! Công việc của mình là chỉ ghi nhận lại những biểu hiện này để biết rằng: mình chưa có Vô Ngã. Và cũng có nghĩa là: mình còn rất nhiều việc phải làm và hành động kế tiếp là cắm đầu cắm cổ mà tu.
2- Vô Sư Trí
Tình trạng này chỉ có thể khi: đời và đạo hoạt động đồng bộ với nhau. Có nghĩa là mình có thể áp dụng được khi giao tiếp với cuộc đời những điều đã học được ở đạo. Cái biết này thật sự là một ấn chứng của chính mình. Bàn về cái biết và cái không biết thì tụi mình hiểu rằng nó chỉ cách nhau có một sợi lông hay đúng hơn bề dày của một sợi lông. Có nghĩa là: khi để sợi lông trên mặt bàn và lấy ngón tay áp nhẹ lên nó thì mình có cảm giác là mình đã đụng được mặt bàn. Nhưng trên thực tế mình còn cách mặt bàn một sợi lông!!! Vô Sư Trí chỉ thật sự có khi chính mình áp dụng được Giới Định Huệ khi sống ở đời.
Nếu đem cái suy tính ra mà suy diễn: thì đây là một chuyện không thể có được và không thể thực hành được. Nhưng thực tế có một vài người họ làm được. Nó cũng dễ hiểu như là mình dùng số Pi (3,14…) để tính chu vi một vòng tròn. Và vì Pi không phải là số nguyên nên vòng tròn không bao giờ khép kín khi tính toán bằng những con số!!! Nhưng trên thực tế thì vòng tròn sẽ khép kín một cái rụp khi mình xoay cái compass!!!
Vô Sư Trí chỉ xuất hiện sau 1 thời gian dài qua cách sống xuất sắc ở đời và xuất sắc ở đạo.
3- Ấn chứng
Là cái rắc rối nhất của cuộc đời. Mình có thể tự ấn chứng qua cái Vô Sư Trí. Nghe là đủ ớn óc rồi. Nếu không chắc ăn (nghĩa là mình chưa sống xuất sắc ở đời và sống xuât sắc với đạo) thì mình nên đến 1 người hay hơn mình. Thái độ mình đi đến họ không phải là để ấn chứng qua câu hỏi. Mà chỉ đem nguyên cái sở trường và sở đoản của mình đến trước mặt họ. Nếu mình đã rơi đúng vào đó thì tự nhiên qua câu chuyện họ sẽ tự động cho mình biết cái tình trạng của mình. Đó là chuyện ấn chứng. Có nghĩa là: nếu mình không hỏi họ và họ không nói gì thì là mình chưa tới đó. Vậy thôi.
Ấn chứng là đối diện với Sự Thật. Mà đã gọi sự thật thì lúc nào cũng mất lòng. Trong vấn đề ấn chứng đôi lúc mình lại đụng phải cái nghiệp của chính mình. Nghiệp có một khả năng ngăn che không cho thấy nhau. Do vậy có đôi lúc người đối diện tuy rất là giỏi nhưng đứng trước cái nghiệp chướng họ cũng mù như thường. Có nghĩa là: họ cũng không ngờ rằng người đối diện đã đạt được trình độ đó. Sự kiện này hay xảy ra khi trong tiền kiếp người đến xin ấn chứng phạm 1 sai lầm rất là thông thường: hiện tượng đóng cửa khen nhau. Có nghĩa là: cùng phe với nhau, hay cùng 1 quan niệm với nhau nên người này phong chức cho người kia dựa theo tính cách thâm niên hay trình độ hiểu biết trên lí thuyết chớ không hề quan tâm đến những kinh nghiệm thực chứng. Cái mất lòng ở chỗ này là: đúng ngay lúc mình cần thì cái nghiệp ở trên ló ra và ngăn che không cho thấy nhau. Với mục đích là “trả cái nghiệp của mình”. Ngay lúc cần thiết này vì bị nghiệp che và bị tình trạng trả nghiệp nên hiện tượng mất lòng xảy ra khi: người có khả năng ấn chứng im lặng và người đến xin ấn chứng cũng im ru luôn. Cách giải quyết là mình nên đến họ thường xuyên hơn để họ có thể rà lại mình qua sự sự trao đổi tâm linh với nhau.
4- Tác dụng hổ tương qua các pháp tu hành.
Có 3 cách chính để tu hành:
Tịnh độ - Người này nghiệp sát rất nhiều nên nếu tự lực mà đi thì sẽ gặp nhiều khó khăn vô cùng. Nên họ nhờ tha lực là chính (trong đó có 1 ít tự lực mà thôi). Khi họ đến nơi rồi thì không phải là họ sẽ giống những người khác đâu. Có một số rất ít là có thể trở về và độ người khác qua các pháp môn khác như Thiền hay Mật. Còn số đông còn lại đều rơi vào tình trạng chung là: vì nghiệp sát quá nhiều nên khả năng của họ là chỉ tự độ và độ một số ít người nữa mà thôi. Họ buộc phải ở ngay trên pháp môn của mình để độ người khác. Có nghĩa là: nếu sở trường của họ là niệm Phật thì đó là cách duy nhất của họ để độ người khác. Họ mà đi ra ngoài cách này hay trật đường rày là họ đụng ngay cái nghiệp sát. Và chính những nghiệp sát này sẽ gây nhiễu loạn và đôi khi làm cho họ mất đi niềm tin vào khả năng độ tha của họ!!! Nếu họ muốn độ nhiều người thì chỉ có 1 cách duy nhất là họ phải ở trên cái đường rày này mà độ tha. Y như xe lửa chỉ có thể chuyên chở và lôi kéo rất là nhiều và rất là mạnh nếu và chỉ nếu: chiếc xe lửa chạy trên 2 đường rày. Còn xe lửa mà đòi chạy như xe hơi là thúi quắc, là kẹt cứng…..
Tịnh Độ coi vậy là một phương tiện rất Đại Thừa. Nó có những cái không thể nghĩ bàn. Cái bất khả tư nghì của nó là thâm nhập được qua cả 2 cách còn lại đó là Thiền và Mật . Nó dễ vô cùng khi truyền đạt nhưng khó vô cùng khi giải thích. Như đầu máy xe lửa: tuy rằng nhìn vào thì giản dị nhưng thật ra xe lửa chạy trên đường dành riêng cho nó mà thôi. Do vậy mà tải trọng của nó rất là lớn.
Câu hỏi liên quan kế tiếp tất nhiên là: tại sao qua bên đó rồi mà khi quay về hành giả vẫn bị giới hạn trong vấn đề độ tha? Câu trả lời là: khi hành giả xuất hiện trở lại và lộ diện để độ tha thì hành giả đụng luôn cái nghiệp của chính mình. Lộ diện ở đây là khi hành giả dù gì đi nữa cũng phải dựa vào cái Ngã để độ tha. Phân tích tình thế "độ tha" này thì tụi mình thấy rằng: cái ngã dù có vi tế như thế nào: hành giả cũng phải bị cái tiền nghiệp nó ngăn che. Đề Bà Đạt Đa do lăn đá hại Phật mà sau này dù có tu hành thành công cũng chỉ có thể là Độc Giác mà thôi.
Như vậy theo thực tế phủ phàng trên khi bị nghiệp sát ngăn che hầu như tất cả hiện tượng độ tha đều bế tắc. Trong trường hợp nặng nề này: chỉ còn có “tha lực“ là ngon lành nhất mà thôi. Trường hợp này có thể xảy ra ở 2 pháp môn chánh còn lại.
5- Thiên Nhãn
Sử dụng thiên nhãn như thế nào để hữu ích cho người và cho mình. Chỉ nên sử dụng nó vào chuyện tu hành mà thôi. Vì khi sử nó trong tính toán này nọ, để hiểu biết những diễn tiến trong tương lai thì mình sẽ đụng vào cái Nghiệp. Ví dụ như khi mình luận đoán này nọ về vấn đề làm ăn thay vì chuyện tu hành thì vô tình mình mở khóa cho thằng ăn trộm.
Họ bế tắc là vì thiện nghiệp của họ đã hết và ác nghiệp của họ bắt đầu xuất hiện. Ngay lúc này mà mình mách nước cho họ thì mình chỉ mở khóa cho thằng ăn trộm nhảy vô. Chuyện gì sẽ xảy ra. Mình bị đã đành mà họ còn bị nặng hơn… Cứ suy nghĩ cái cảnh vào thời Đức Phật khi tăng đoàn bị nạn đói. Lúc đó ngài Mục Kiền Liên xin Phật sử dụng thần thông để mở đường đi cho nhanh và kiếm thức ăn. Đức Phật không cho.
Thật ra vấn đề này rất vô cùng tế nhị. Nguyên tắc đầu tiên là mình phải quán xem có nên dùng nó vào chuyện này hay không. Nếu nên thì tại sao. Và nếu không nên thì cũng nên đi đến tận cùng để tìm ra nguyên nhân tại sao. Và đừng coi phơn phớt mà sau này ân hận. Đã xữ dụng nó rồi thì vẫn tâm niệm rằng: thần thông không liên quan gì đến nhân quả. Thần thông là biết người biết ta, trong và ngoài. Và lạm dụng là tiêu dênh liền.
Nên nhớ nó là một phương tiện thiện xảo để giúp đỡ bạn bè tu hành và vẫn có thể bị nghiệp lực ngăn che như thường.
6- Đối trị sân hận, tham lam và si mê khi chưa tu xong
Trong tất cả các cách tu hành nguyên tắc chính là suy nghĩ đến chuyện “chưa tu xong“ của mình. Và lấy làm hổ thẹn với chính mình. Qua lý luận sau đây: đã hơn 2500 năm rồi mà vẫn mình vẫn chưa làm nên trò trống gì cả. Người thân trong gia đình của mình rồi đây sẽ lần lượt qua đời. Không lẽ mình không làm hay giúp họ được cái gì hay sao? Và sau đó là đọc cái câu của ngài Xá Lợi Phất: tui còn rất nhiều chuyện phải làm. Rồi mình nên chú ý đến chuyện tu hành là chính. Nói là nói như vậy. Vì cây muốn dừng mà gió chẳng chịu yên thì sao đây. Trong trường hợp này đành chỉ tâm niệm rằng: chẳng qua đều là nghiệp hết. Nhưng suy nghĩ và sự hiểu biết đúng đắn như vậy nhiều lúc cũng chẳng giúp cho mình bớt căng thẳng thần kinh.
Muốn giảm sự căng thẳng trên thì mình nên quay về với cái hơi thở. Trong lúc Đức Phật còn sống chính ngài cũng đã phải quay trở về với cái cách chú ý đến hơi thở này nguyên cả 3 tháng hạ. Có lẽ ngài cũng đã bị thần kinh căng thẳng khi các tu sĩ thời bấy giờ không thèm để ý đến lời khuyên của ngài chăng? Dù gì đi nữa thì cách chú ý vào sự ra vào của hơi thở là một dụng cụ hay nhất nếu không nói là duy nhất để chận đứng và hủy diệt mọi suy nghĩ vẫn vơ vốn là sự biểu hiện của thần kinh căng thẳng. Khi mình niệm trong tâm “hít vô tui biết là tui đang hít vô“ trong khi mình đang hít vào. Và khi thở ra thì mình cũng niệm trong tâm “thở ra tui biết là tui đang thở ra“. Hành động xem ra có vẻ ngớ ngẫn và ngu đần trên lại là một liều thuốc vô cùng thần diệu chữa trị sự căng thẳng của thần kinh sau một ngày lăn lộn kiếm ăn ngoài đời.
Thật vậy khi thân và tâm thực hiện được 100% cái suy nghĩ đó thì sự tiết ra của các kích thích tố ở trong máu sẽ không cần thiết nữa. Và do nồng độ của các kích thích tố này giảm đi mà sự căng thẳng thần kinh cũng theo đó mà biến mất.
7- Thư giản và ngủ
Sau một ngày lăn lộn ngoài đời để kiếm ăn rồi về nhà còn tréo chân thì cái chuyện ngủ gục là quá bình thường trong đời sống tu hành của một cư sĩ. Tuy vậy vì sự tinh tấn đã được Đức Phật nhắc đi nhắc lại tới 7,8 lần gì đó trong 37 phẩm trợ đạo. Nên để tránh tình trạng trên bọn mình cũng nên sử dụng kỹ thuật sau đây để tinh tấn vượt qua cái khó khăn này.
Nếu mà chỉ vì miếng ăn mà mình phải chạy như con chó đạp phải lửa rồi về nhà phờ râu ra thở bằng miệng và khi tập thì không còn sức nữa thì cái chuyện đi ngủ là bình thường. Cho nên kỹ thuật sau đây chỉ áp dụng cho trường hợp lừ đừ mà thôi.
- Nhắm mắt lại và tập trung vào một điểm đằng trước mặt, hay nhìn đằng trước mặt và niệm A Di Đà Phật
- Sau khi an trú được rồi thi có cảm giác hơi tỉnh lại một chút và cơn buồn ngủ đã lui thì lúc này mới thư giản để vào buổi tập
Cách tập này có thể qua được một cách dễ dàng cơn buồn ngủ.
8- Cái mắc kẹt lớn nhất của bọn ít phước báu như bọn mình
Trong các chi thiền từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền rồi Vô Sắc thiền tụi mình nên để ý đến chuyện phát huy cái tình trạng hỷ và lạc. Và khi niệm Phật thì tụi mình cũng nên để đến cái tình trạng tinh tấn của mình là: buổi công phu này nó khá hơn và khác hơn ngày hôm qua. Mà vui với chính mình. Tình trạng hỷ lạc này phải được tác ý và khuếch đại. Và làm cho từ trạng thái "tẩm ướt" đến "tràn đầy" rồi "xung mãn". Tại sao mình phải nhấn mạnh vào trạng thái này? Là vì: tâm lý của mình nó sẽ được thỏa mãn, được no đầy hạnh phúc. Nó được thấm nhuần trong nỗi hỷ lạc thanh tao của buổi công phu. Tình trạng này nên được kéo dài ra cho cả ngày có nghĩa là 24 giờ đồng hồ. Tại sao? Là vì mình sẽ phải đối chọi với cái Tham Sân Si buồn lo… Việc đem đạo (tình trạng hỷ và lạc) vào đời này sẽ cho mình đủ sức mạnh để vượt qua những khó khăn trong đời sống hằng ngày. Một khi đã vui quá rồi thì mình sẽ ít phiền muộn, ít đau khổ và sau cùng là ít tham dục khi gặp trở ngại trong những lúc chạm trán với những khó khăn ở ngoài đời.
Những dòng này cũng chỉ là những gạch đầu dòng và cũng là những kinh nghiệm của tui trong những lúc phải băng mình qua sa mạc cuộc đời. Mong rằng bọn mình đủ đồ nghề để đục đẽo cái tâm thức méo mó này thành ra một cái gì đó để trang nghiêm Quốc Độ.