06 - Hiếu Thế Gian và Hiếu Xuất Thế Gian

06 - Hiếu Thế Gian và Hiếu Xuất Thế Gian

Pháp Âm & Phim / Chữ Hiếu    Xem 1289     5 năm trước

06 - Hiếu Thế Gian và Hiếu Xuất Thế Gian

Thầy Tibu thu bằng cassettes

Nghe pháp âm:

Nội dung chuyển ngữ từ Lele
Đạo Phật có một cái nhìn trả hiếu rất là tích cực. Chúng ta thấy được: đối với Đức Phật: người chết, thì mình phải đi tới và kiếm cho ra cung trời của họ ở, sau khi kiếm cung trời họ ở rồi thì mình mới Thuyết Pháp và mình Độ họ. 
Hệ thống Đại Thừa có một cõi Tịnh Độ. Cũng có nhiều người trong bạn tui và ngay bản thân tui cũng đi Độ Tử những con vật. Do Thiền Quán, mình thấy được, đó là ông chú, đó là ông anh mình, đó là đứa em mình, và hiện giờ đang là súc vật; mình đã nhờ oai lực của Chư Phật, độ họ về Tịnh Độ. Có một vài người trong chúng ta làm được chuyện đó. Chuyện này không phải là chuyện đùa, chúng ta thấy những điều đó hoàn toàn nguy hiểm chỉ khi chúng ta không biết được nguyên tắc và cơ cấu vận hành của nó. 
Ví dụ như, đã bao nhiêu lần mình làm đám giỗ ông Nội, ông Ngoại, bà Nội, bà Ngoại. Và cũng đã bao nhiêu lần mình bắt ông Nội, bà Ngoại mình cột lại, vì họ là những con chó, mình sợ nó làm dơ quần áo ông khách của mình, thằng bạn của mình hay những khách mình mời tới. Mình có biết đâu rằng, con chó té ra là ông Nội của mình, đang nằm đó. Chuyện đó, không có đến nỗi như vậy, nhưng mà nó xảy ra ở trong chính anh em mình luôn. 
Mình cũng cần biết qua một số nhận định về kết quả của bất hiếu: 
Trong Kinh Trung Địa Quán có nói rằng: “Có con trai, con gái nào không hiếu thuận với Cha Mẹ, làm cho Cha Mẹ tâm sinh oán hận, khiến cho Cha Mẹ bực bội thốt ra lời nói ác, đứa con (nhờ cha mẹ sinh ra, có pháp môn tu thành Phật, vì thế cha mẹ được cái quả là bất khả xâm phạm) tức thời sa đọa theo lời nói ấy hoặc vào Địa Ngục hay ngạ quỷ, là súc sanh. Thế gian nhanh gì hơn gió dữ, một chút oán niệm của Cha Mẹ còn nhanh hơn gió dữ ấy. Thế thì Như Lai, Chư Thiên, Kim Cang Vương cùng các chư Thiên dù được năm pháp thần thông cũng không cứu độ được người con.”
Đó là câu chuyện của Á Đông, Đạo Phật. Còn những quan niệm tân tiến thời nay thì sao? Người ta nói rằng: đứa con bất hiếu, sẽ trở thành một phần tử ngoài xã hội. Khi Cha Mẹ là người thi ân nhiều nhất, mà họ phủi ơn, có nghĩa rằng là Bà Già, Ông Già nuôi anh từ nhỏ tới lớn mà anh còn không chơi, vậy thì anh chơi với ai. Không có ai chơi với anh nổi hết đó. 
Với cái tính vô ơn đó, họ sẽ làm gì được?! Ai tin? Ai quý họ? Ai thân họ? Ai giúp đỡ họ? Thì nếu mà chơi với họ thì cũng giống như nuôi ong tay áo, nuôi khỉ trong nhà thôi. Vui thì họ ở, ghét thì có khi họ chơi mình luôn. Thành ra, những người bất hiếu là những thứ khó xài. 
Còn ở trong gia đình thì sao? Kẻ bất hiếu phải sống với tâm trạng buồn tủi, khổ đau, cô độc, thiếu hẳn tình thương của anh chị em, dòng họ. Muôn ngàn thất bại đang chờ đón. Sợi dây phiền não luôn trói chặt người con bất hiếu. Vì nếu làm rơi một giọt lệ của Cha Mẹ họ phải trả lại hàng ngàn giọt lệ và những đắng cay do con cái họ đem lại, do cuộc đời trao tặng họ. 
Nhà tư tưởng Tây phương có nói: Có thể khắc trên mộ bia nhiều người câu này, nhiều người nha: 
“Chôn vào lúc sáu mươi, nhưng chết từ lúc ba mươi.”
Cũng thế, những người bất hiếu đã chết trong lòng cỏ cây muôn loài từ lúc ba mươi, vì hết xài rồi; hết xài là coi như chết. Sống từ ba mươi đến sáu mươi tuổi, sống chỉ để làm hoen ố Trái Đất vì những dòng tư tưởng bất hiếu, con người bất hiếu, hành vi bất hiếu. Quanh họ là một vùng tối đen do tư tưởng bất hiếu phát ra. Dĩ nhiên, những gì tối đen sẽ phù hợp với đen tối. Những âm hồn ly biệt sẽ nương tựa vào vùng đen tối của họ để đem lại tai ương xui xẻo. Khi về già thì kẻ bất hiếu sẽ bệnh tật, thân xác bị hành hạ đau đớn như rùa lột mai, lúc chết đi thì những hiện tượng, những kiếp kế tiếp sẽ thê thảm luôn. Nếu may mắn ra khỏi được, thì họ cũng thọ sanh khổ nhục trong kiếp làm trâu ngựa chuyên chở nặng nề. Khi thoát kiếp trâu ngựa để làm người, thì sẽ xấu xí, bệnh khuyết, đần độn, đau ốm liên miên. 
Cho dù tin hay không tin chuyện đó thật hay không có thật thì tâm trạng khổ đau, cắn rứt vì ân hận của những người con bất hiếu như A Xà Thế chẳng hạn: cũng quá đủ để giết chết dần mòn cuộc sống của họ. Mối ăn năn đó sẽ được họ thọ cảnh A Tỳ Địa Ngục ngay trong hiện kiếp, không chờ cho đến khi họ bỏ xác thân này. 
Chúng ta hãy thể hiện tính Từ của người con của Phật; cố gắng tu hành tinh tấn hơn nữa để hồi hướng cho những người con bất hiếu, hầu gánh nặng của Địa Tạng Vương Bồ Tát nhẹ bớt đi phần nào. 
Qua phần báo hiếu, thì cứ mỗi năm tới ngày Vu Lan, người Phật Tử luôn nghĩ tới báo hiếu. Nhưng mà những Tu sĩ, đặc biệt Tu sĩ thứ thiệt thì 365 ngày đều là ngày Vu Lan. Không có vấn đề ngày Vu Lan nào hết, mà ngày nào cũng là ngày Vu Lan. 
Ông Phật nói rằng: “người con có năm bổn phận đối với Cha Mẹ, nuôi dưỡng Cha Mẹ”:
--Thứ nhất, là nuôi dưỡng Cha Mẹ khi già yếu. 
--Thứ hai, làm đủ bổn phận của người con đối với Cha Mẹ. 
--Thứ ba, giữ gìn truyền thống gia đình. 
--Thứ bốn, bảo vệ tài sản và thờ tự. 
--Thứ năm, làm tang lễ khi Cha Mẹ qua đời (Trung Bộ Kinh Tập Bốn).
Tuy nhiên, ta phải báo ơn Cha Mẹ khi đã lớn khôn, thì phụng dưỡng thế nào cho là đúng. Có khi mình làm bậy để mình nuôi Ông Già, thì Đạo Phật không chấp nhận cái chuyện đó. Đạo Phật không chấp nhận người con làm ác để nuôi Ông Già, Bà Già; vì như vậy thì người con cũng bị lỗi, như vậy thì hành động đó chưa tròn đầy. Nhưng mà khi mình có phụng dưỡng rồi thì mình lại… có thêm câu nữa là: Cách cho quý hơn của cho. 
Nếu mà mình vứt cái... bạch trước mặt Ông Già, Bà Già một đống tiền, mình vô tình làm tủi lòng Ông Già, Bà Già, vì cách phụng dưỡng đó một cách máy móc quá, chẳng có thể hiện cái tình cảm gì hết. 
Cũng thế, ông Khổng Tử nói: 
“Đời nay, hễ ai nuôi được Cha Mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng những thú như chó, ngựa thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nuôi Cha Mẹ mà chẳng kính trọng thì chẳng khác gì nuôi súc vật đâu.”
Cha Mẹ không những lo lắng, hy sinh cho ta đầy đủ về vật chất mà còn nhọc tâm, khổ trí với ta về tinh thần. Cha Mẹ cũng vui khi thấy ta vui, và cũng đau sầu héo úa khi biết ta đau khổ. 
Có khi chỉ đem chút xíu giấy thuốc rê cho Ông Già hút. Ông Già quấn quấn ổng hút, ổng cũng thấy khoái nữa chớ đừng có nói đem tới những cái gì quý giá. Còn cái việc đưa cho Ông Già cái gì đó, giờ mình đưa cho Ông Già một cái cục kim cương 10 ký, đem tới, cũng không ăn thua gì với ổng, so với cái sự khổ nhọc của ổng lúc nuôi mình và lo lắng cho mình. Thành ra là: mình không có bận tâm mấy cái chuyện là đưa cái này có đủ hay không, đưa cái kia có đủ hay không. Vấn đề là ông thấy, là ông đang cần, ông chơi luôn là tự nhiên là cả gia đình đều vui. Không có bận tâm tới cái chuyện là mình đưa cái món này đủ hay không, không cần. Đừng có làm cái chuyện cà chớn để rồi người ta nói rằng đó là Cha nào con nấy thì dở. Như vậy là không hay!
Đi tới vấn đề chữ Hiếu: người ta hay nói tới Nhị Thập Bát Tú hay là Hai Mươi Bốn Cái Gương Chữ Hiếu ở Trung Hoa. Nhưng mà Nhị Thập Bát Tú được viết ra từ hồi thế kỷ thứ mười ba, do Quách Tự Nghiệp viết. Cách đó mười tám thế kỷ, Đức Phật sâu xa hơn khi đề cập tới Báo Hiếu Xuất Thế Gian, tức là báo hiếu về phần tinh thần. Ông nói rằng: 
--Lấy món cam lồ mà phụng dưỡng Cha Mẹ là hiếu thế gian. 
--Khuyên Cha Mẹ tu Tịnh mới là hiếu xuất thế gian. Hiếu thế gian thì Cha Mẹ chỉ hưởng phước trong một đời, báo hiếu như vậy không lớn. 
Đúng rồi, tại vì nếu mà ảnh ăn, ảnh phè phỡn, rồi ảnh cũng nghĩ tầm bậy, tầm bạ, tư tưởng bông lung, lung tung: Thế rồi vì không để ý tới cái kiếp thứ nhì, khi rời khỏi cái kiếp này, đến kiếp thứ nhì ảnh lại lang thang tiếp. Do đó cũng là: Ta chưa làm tròn vẹn, thành công chữ Hiếu. 
Hiếu Xuất Thế Gian giúp cho Cha Mẹ hưởng phước vô tận. Vì Cha Mẹ được sanh lên Tịnh Độ, phước thọ trải vô lượng kiếp. Như vậy mới gọi là Đại Hiếu. Cái cách này hết thuốc luôn đó. 
Phật dạy thêm rằng: 
--Những ai đền ơn Cha Mẹ bằng những của cải, vật chất, tiền bạc thì không bao giờ đủ để trả ơn Cha Mẹ hết. 
--Này các Tỳ Kheo, đối với Cha Mẹ không có lòng tin thì khuyến khích hướng dẫn an trú vào lòng tin. 
--Đối với Cha Mẹ theo ác giới thì khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện giới. 
--Đối với Cha Mẹ xan tham thì khuyến khích hướng dẫn Cha Mẹ an trú vào Bố Thí. 
--Đối với Cha Mẹ nào ác trí tuệ thì khuyến khích hướng dẫn an trú vào Trí Tuệ. Cho đến như vậy: này các Tỳ Kheo, làm, làm đủ để trả ơn Cha Mẹ. (theo Trung Bộ Kinh Tập I) 
Thế gian này đầy dẫy những khổ đau, nên Đức Phật mới bảo: 
--Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển. 
Trước những giọt nước mắt đó, ta phải làm gì để xoa dịu? Ta hãy giúp Cha Mẹ có đức tin mãnh liệt vào Tam Bảo, hiểu Luật Nhân Quả Luân Hồi thì việc làm đó mới là đúng. Để tâm bình an khi nghịch cảnh. Nếu mình hiểu thấu đáo điều đó thì cái tâm mình nó đỡ quậy hơn, biết tránh xa điều ác, chăm làm việc thiện. Do tâm thiện phát sanh, lòng bi phát triển, Cha Mẹ biết bố thí. Ý thức thế gian là giả tạm và Vô Minh sẽ được xé tan. 
Khi Cha Mẹ về già thì ai lại không bệnh, chuyện đó là chuyện đương nhiên. Mình có cực thì cũng ráng mà chăm sóc, hỏi han vì sức yếu hôm nay là do ngày xưa Ông Già, Bà Già phải lao tâm, lao lực để nuôi dưỡng gầy dựng cho vợ mình, cho chồng mình. 
Nếu Cha Mẹ kéo dài thời gian trên giường bệnh thì ta hãy nghĩ về sự đau đớn của thể xác: Ổng lo cho mình quá, giờ cái nhân quả ổng bị như vậy. Thì mình càng phải chơi tối đa hơn nữa, chiều chuộng hơn nữa, vì đúng ra Ông Già, Bà Già đâu có muốn gây phiền lụy cho con cháu trong chuỗi ngày tàn. Nhưng mà có người: trong điều kiện đó, lại nhợn tởm khi Cha Mẹ liệt giường, liệt chiếu, tiêu tiểu chỉ có một nơi, và để mặc cho người bệnh tự xoay xở. Bất hiếu là thế!.
Vì họ bị cái bệnh gọi là mau quên, hay là họ cố tình không nhớ thủa nào Cha Mẹ săn sóc tắm rửa cho con sạch sẽ, khi con đi tiểu, ốm đau, và ghẻ chóc. Thậm chí một số người trông mong cho Cha Mẹ chết sớm để họ khỏi nhọc lòng; với một tình trạng vẫn còn chạy chữa được, họ cũng bỏ mặc. 
Tui chữa bệnh nhiều, tui thấy rồi, có những lúc tui chữa bệnh xong rồi tui về nhà, Má Nhung phải cạo gió luôn đó, tại mình nghĩ mình buồn quá, vì họ bỏ mặc, không quan tâm, bổ dưỡng người bệnh suy yếu và chết sớm hơn. Chính tư tưởng và hành động bất hiếu này đã gây phiền não cho người sắp chết và nguy hiểm của vấn đề là: Chập tư tưởng cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến cảnh giới mà người chết sẽ thọ nhận. Kiếp trước đã ràng buộc, kiếp sau sẽ gặp gỡ lại để trả quả cho nhau. Cái này là chơi tới chơi lui. 
Bên cạnh đó thì có những người con cũng có hiếu, nhưng mà hiếu một cách sai lầm, hiếu theo cái bánh xe cũ của người đi trước, hiếu một cách máy móc sợ người ta chê cười cái lòng hiếu của mình, thành ra xảy ra những cảnh là như vầy: Khi Cha Mẹ gần đến lúc lâm chung thì họ tỏ lòng hiếu thảo bằng cách khóc thương và vật vã kêu gào, đẩy tới đẩy lui thân xác. Họ nào có biết đâu người sắp chết không cần nước mắt, mà chỉ cần sự thành tâm cầu nguyện của thân nhân, cần được thanh tỉnh để hướng về Đấng Từ Bi tiếp độ. Khi chết, thì thể xác trở về với đất, nước, lửa, gió; có chăng là còn cái nghiệp để mang theo. Tiền bạc tốn kém trong việc sát sinh, hại vật để lo tang ma, giỗ quải; hãy dành làm phước tạo duyên hồi hướng cho Cha Mẹ, có thế là sự báo hiếu của ta mới đi đến kết quả tốt đẹp. 
Còn người ta chết xuống là: 
Ba ơi, Ba ơi, Má ơi, Má ơi, báo hại đẩy tới đẩy lui ông già, ổng biết cái “đế” gì? 
Vì khi chết, cái cảm giác của họ, cái xúc giác của họ tăng lên tới gần cả trăm ngàn lần, giống như là con mắt của anh mà lấy giấy nhám chà vô. Ngay lúc đó mà mình đẩy tới đẩy lui như vậy, họ rất là đau. Cái nhân điện của mình khi phát và tiết ra tiếng gào thét như vậy, có cái lực rất mạnh phóng những âm thanh đó vô, nó cắt, nó rung cái thể linh hồn, thể hào quang của họ. Cái đó, làm cho họ rất là đau và khó chịu. Trong lúc mình đẩy tới,… đẩy lui… như vậy thì có khi làm họ tức nữa; thì cái tư tưởng cuối cùng nó lại quậy qua quậy lại là như vậy. Thành ra là có những cái, do mình không biết mà làm hay là mình thấy người ta xót thương như vậy thì có lẽ… là có hiếu, về nhà mình cứ hú lên như vậy. Té ra, khi ông già nghe hú như vậy, ông già thương con quá thì đi không đành. Tới khi loạng quạng, loạng quạng ở trong nhà từ năm này qua năm kia, gặp hai con chó hàng xóm chui vô làm chó. 
Gặp cái này, gặp cái nọ… vô mình mà… làm sao mà biết được!
Cái chuyện đó… nói ra thấy… càng chán thêm!
Bây giờ qua vấn đề hồi hướng công đức thì trong Kinh Thí Dụ, có đoạn nói về vấn đề này như sau: 
Một ngày kia, Đức Thế Tôn cùng Anan đi dọc bên bờ sông, chợt có năm trăm con ngạ quỷ đi ngang thật nhanh (chuyện này không biết nó chế ra hay sao á vì Anan làm cái đếch gì mà thấy được ngạ quỷ, thế nhưng mà câu chuyện nó cũng tiếp tục) ca hát vui vẻ líu lo, tiếp đó có năm trăm con quỷ khóc đói, kêu khóc thảm thương. 
Anan hỏi Phật: 
--Bạch Thế Tôn. Làm sao cũng là quỷ mà bọn kia ca hát bọn này lại khóc la? 
Phật bảo Anan: 
--Bọn quỷ ca hát là vì chúng sắp được sinh Thiên do con cháu của chúng tu phước, trì trai, lễ bái để hồi hướng công đức. Còn bọn quỷ khóc lóc là phải đọa Địa Ngục bởi vì con cái sát sanh, hại mạng không chịu tu phước để hồi hướng cho thân nhân quá vãng. 
Câu chuyện này không biết trúng hay trật, thế nhưng trên quan niệm Đạo Phật hay Nhân Quả mà mình hồi hướng thì mình sẽ thấy liền thôi. Chẳng hạn như: một ông trụ trì Chùa đi vô gặp hai thí chủ tới cúng dường; một bà đưa một bao thơ không biết bao nhiêu tiền ở trong đó, một bà khác mới lột cái nhẫn thả xuống (tự ái mà):
--Con mẹ này đưa bao nhiêu, mình chơi cái nhẫn mình đưa thẳng cho ông Thầy luôn. 
Ông Thầy chẳng hiểu “ất giáp” gì hết cũng cười: 
--Tùy hỷ, Tùy hỷ, vui vẻ. 
Rồi cái: 
-- Được rồi, Thầy cũng hồi hướng cái công đức của Thầy cho các con. 
Nhưng mà Thầy... tu được cái đếch gì, thành ra là nó lại lòng vòng với nhau. 
Tui nói chớ: 
--Không có tháo ra nổi cái đó! Thầy cũng về hồi hướng, mà hồi hướng ba cái đồ gì đâu không cho những người mà họ tu thiền chỉ nói về ăn chơi và đến lúc hết phước thì cả cái dàn đó nó đi đái, coi mắc cười lắm. 
Trở về vấn đề: ta hãy thờ phượng Cha Mẹ trang nghiêm, luôn luôn khói hương tưởng niệm, những ngày giỗ chính là những dịp họp mặt cháu con đầy đủ, thường thường chúng ta sẽ lái cái câu chuyện sang một hướng là kể về công đức cao dày và tình thương trời bể của người khuất bóng. 
Trong bữa ăn, lúc tui để ý, thì ít khi nào nghe họ kể những cái câu chuyện của Ông Già Bà Già, ông Nội bà Nội cho đứa con nghe lắm. Họ chỉ ăn thôi, thành ra đứa con nó ăn, nó cũng chẳng biết điều gì cả. Nó ăn cho đã miệng nó thôi, có gì đâu. Khi mình nói về Cha Mẹ của mình; tất nhiên, bên cạnh những đức tính tốt của Cha Mẹ mình dĩ nhiên có những đức tính xấu của Cha Mẹ mình luôn; mình nói luôn cho nó nghe luôn, thì nó sẽ có những cái nhận định là: À Ông Già, Ông Già của mình ổng biết ơn ông Nội bà Nội, như vậy, thì mình sẽ biết ơn người sinh ra mình thôi. Mình gieo đúng cái tư tưởng đó cho nó và nó sẽ là kẻ biết ơn, biết nhớ ơn và biết báo ơn. Do đó, nó cũng làm mát mát Trái Đất này đi một chút. 
Nếu chúng ta để ý một chút; thế giới luôn có thống nhất những cái ngày như Hồng Thập Tự quốc tế, Chữ Thập Đỏ quốc tế đó, ngày Hiến Chương Nhà Giáo, ngày Phụ Nữ quốc tế, ngày quốc tế Lao Động... được tổ chức một cách quy mô, có qui định và được tổ chức vô cùng long trọng. Nhưng ngặt một điều là: ngày Báo Hiếu quốc tế thì chưa biết bao giờ mới được đề cập. Hãy nhớ rằng: dòng tư tưởng Hiếu thấp sáng tình người cho Trái Đất này tốt đẹp hơn. Nếu may mắn một lúc nào đó nhân loại lại ý thức tầm quan trọng của chữ Hiếu, thống nhất ngày báo Hiếu quốc tế thì chúng ta nên nhớ rằng, ba trăm sáu mươi lăm ngày là phải là ngày báo Hiếu. 
 Đức Phật có dạy: “nếu mà mình tính lại cái số xương của mình thì nó gấp mười lần cái núi Bà ở Đà Lạt”… Do đó cho nên, không phải là mình tính cho Ông Già Bà Già của mình mà mình tính cho những người có những cái dịp mình làm được cái chuyện báo Hiếu, là mình làm liền, vì biết đâu đó cũng là những Cha Mẹ của mình và có dịp họ kêu mình tới báo Hiếu thì mình làm liền. Đó là người đã kêu mình tới để mình: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật... cho họ… tiếp độ cho họ đó. Thường thường người đó có thói quen kêu người tới là hay cảm ơn, cảm ơn người bạn hay là ông Thầy của mình đã tiếp độ cho Cha mình. Nhưng thiệt ra mà nói: người tới tiếp độ phải cảm ơn người đã kêu mình tới chớ! Vì đây là một cái dịp để mình trả Hiếu mà. Thành ra là: tư tưởng của người đi với Phật Giáo nó ngược với tư tưởng của xã hội. Thành ra là, người cho phải cảm ơn chớ, người nhận lấy gì cảm ơn, người nhận không cần phải cảm ơn, người cho phải cảm ơn chớ!.
Ở trong Kinh Nhẫn Nhục, Đức Phật đã dạy là: 
“Điều Thiện tối cao không gì hơn là Hiếu và điều Ác nhất cũng không gì hơn là bất Hiếu.”
Chúng ta là những người con của Phật, chúng ta có thể làm điều ác nhất đó chăng? Nếu mình là người Phật Tử mà mình bất hiếu, thì mình đã ngăn chặn những người khác để ý tới Đạo của mình, tới Chân Lý này; họ sẽ không thấy được Đạo, được Chân Lý này. Giả sử như là: một người nào đó cũng nói là theo Đạo Phật nhưng mà có ý tưởng bất hiếu thì cũng ngăn cản những cái người khác muốn vào Đạo Phật vậy. Vậy thì, mình đã là người Phật Tử rồi thì nhất định phải xem trọng chữ Hiếu. 
Nếu mà gặp Cha Mẹ không hiểu Đạo, không biết thương con, thì nên nhớ rằng: chớ nên bất hiếu. Nên và cũng phải nghĩ rằng là quả xấu là do nhân xấu; cái đó là do nhân xấu ta gieo từ vô số kiếp đến giờ là đã kết trái; và khi nó đã kết trái rồi, thì ta phải can đảm nhận lấy, gánh chịu trong tinh thần tự tại, đừng trốn tránh, than vãn oán trách, vì luật Nhân Quả theo ta như bóng với hình. Hãy cảm ơn Cha Mẹ đã không phải bắt ta trả đủ số nợ oan nghiệp do ta đem đến cho họ từ kiếp nào rồi. Cho nên cố gắng lập công, bồi đức để hóa giải nghiệp duyên hơn là hành động và phản ứng theo sự vô minh. Làm theo phạm tâm thúc đẩy, đừng lấy oán trả oán; đừng lấy tâm súc sanh trả lại tánh A Tu La; oan sai sẽ đời đời trói buộc. Bồ Tát thị hiện lung tung hết, không biết đâu mà rờ hết; do đó ta hãy nên có cái nhìn sâu rộng, thấm sâu luật Nhân Quả, thuyết Luân Hồi để không vô tình gây thêm nghiệp chướng. 
Khi ăn thịt cầm thú, có bao giờ ta nghĩ đó là ông bà cha mẹ chúng ta đã tạo nghiệp mà đầu thai lại không?!
Khi rủa xả hay mang tâm sân hận hành động ác với một người hàng xóm hay kẻ thù gần xa, có bao giờ chúng ta nghĩ đó chính là ông bà cha mẹ ta tái sanh không? 
Khi keo kiệt, không dám bố thí cho kẻ ăn mày một chén cơm, một đồng bạc, mà còn xua chó cắn, chửi mắng. Ta có biết chăng kẻ cùng khổ đó chính là ông bà cha mẹ ta từ kiếp trước do tâm bỏn xẻn mà hôm nay phải nghèo khổ tàn tật ăn xin chăng? 
Nếu ta chỉ biết báo hiếu trong kiếp này, thì đó là điều khiếm khuyết. Phật dạy trong Tương Ưng Bộ Kinh rằng: 
“Nước bốn biển có gọi là nhiều, nhưng không nhiều bằng sữa Mẹ chúng ta đã uống trong bao nhiêu kiếp luân hồi.”
Nếu Thái Tử Tất Đạt Đa ở lại cung vàng điện ngọc để tròn hiếu hạnh với Vua cha thì làm gì có ngày Tịnh Phạn vương được sinh về cảnh Tịnh Chư Thiên? Làm gì có ngày Vân Mẫu Ma Da được mỉm cười trên cung trời Đao Lợi với kết quả Tu Đà Hườn? Và cứu được Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp? 
Nếu Tổ Huệ Năng chỉ biết ôm ấp cái hiếu thế gian lo đốn củi đổi gạo nuôi mẹ thì làm sao Phật Giáo được xiển dương, Chánh Pháp được hoàn khai? 
Phút giây chứng ngộ của những người con phi phàm mang tâm Đại Hiếu với cái nhìn xa rộng không bị ngăn ngại bởi thời gian không gian… đó đã báo được Hiếu đầy đủ ý nghĩa nhất. 
Tóm lại, chúng ta thấy rằng đó là con người; không phải là một sinh vật đa lông hữu nhũ, đa mao hữu nhũ, sinh sống đúng, đi lang thang chật đường chật phố. Con người Phật Giáo được định nghĩa là phải có Hiếu mới được gọi là Con Người, còn nếu không thì đó chỉ là một sinh vật thôi. 
Tóm lại hiếu hạnh phải coi là một vấn đề quan trọng nhất đối với con người. Nếu chưa tròn hiếu hạnh thì đừng nói gì tới Giải Thoát. Sự chứng ngộ an vui sẽ không bao giờ có nơi tâm người con bất hiếu. Hiếu hạnh là nguồn gốc của mọi sự an vui, có chìa khóa hiếu hạnh trong tay ta sẽ mở được mọi cánh cửa của hạnh phúc, làm nở nụ cười trên môi kẻ khác. Làm một việc thiện, làm nở nụ cười trên môi Cha Mẹ là việc tối thiện. Ta thử kiểm nghiệm lại xem trong đời ta có bao nhiêu lần làm nở nụ cười trên môi Cha Mẹ hay chỉ khiến nước mắt Cha Mẹ chẳng chút nào ngừng. Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy thắp sáng ngọn đèn hiếu hạnh trong tâm ta dù rằng rất là nhỏ, nhưng cũng góp được phần nào ánh sáng xua tan bóng đêm ngự trị dày đặc trên Trái Đất này. Với dòng tư tưởng tối đen của những người con bất hiếu, lời của đấng Từ Tôn mãi mãi là ánh đuốc soi đường cho chúng ta đi tìm hạnh phúc qua con đường báo hiếu. 
Đó là một số vấn đề về báo hiếu. 
Thế thì để cái vòng phép, để sự lưu chuyển của Nhân Quả, thì nhiều lúc chúng ta tự nhiên gặp những người họ tới, họ đưa cho một mớ tiền; rồi mình cũng lúng túng, mình cũng không biết làm sao; trước hơn hết mình đi tới mấy cái thằng Tứ Thiền, mình tới mình hỏi nó: 
--Nguyên nhân nào? Do cái gì? Và tui phải làm cái gì? 
Những người mà có Tứ Thiền rồi: là “nguyên nhân nào? Do cái gì? Tôi phải làm gì?”, mình đừng có vì những đồng tiền đó mà mình chận lại sự làm việc thiện của họ, mình cũng đừng có vì mình ngon hơn họ mà mình đứng, mình chĩa, mình xỉa xỏ, xỉa xoi mình nói những cái điều đạo đức, họ dễ hiểu lầm người mình lắm. Nếu đó là số tiền không phải của mình, thì mình Nhập Định một cái, mình biết là nó phải ở chỗ nào, rồi mình lấy số tiền đó mình làm cái chuyện đó thay cho họ. Làm xong rồi nếu mà được dịp mình tới mình báo cho họ biết luôn. Như vậy, thì họ vừa kính và vừa nể nữa. Biết đâu cái đạo Pháp của họ sẽ tăng triển hơn. Vấn đề trả ơn đối với người mà có nghề rồi thì không thành vấn đề lắm, chúng ta chỉ cần Nhập Định và chúng ta sẽ biết được chúng ta sẽ làm cái gì để trả ơn và những người không có nghề thì hãy tới những người có nghề mà hỏi… thì họ sẽ Nhập Định và sẽ kiếm ra cái cách cho mình. Khi kiếm ra rồi thì cho dù có khó cách mấy đi nữa mà mình đã tính báo ơn rồi thì mình chơi luôn, chớ đừng có chần chờ, chần chờ thì cơ hội nó mất đi, có khi khổ hơn là lời. 


3234
1.2502901554108 sec