29. Chánh Ngữ

29. Chánh Ngữ

Tập Tin / Tập Tin IV    Xem 380     17 năm trước

Tập Tin IV

Bài 29. Chánh Ngữ

Nghe chuyển âm:

Chánh Ngữ

Tue, 5 Nov 96 21:21:33 UT

.....Thinh và các bạn thân mến,

Vì lý do trục trặc kỹ thuật nên mail trước của tôi bị cắt lưng chừng, làm hại tôi phải ngồi viết lại cho phần tiếp theo. Xin các bạn thông cảm. Tôi xin mạn phép trả lời theo sự hiểu biết của tôi. “Chánh Ngữ” là một trong 8 “con đường chân chánh” mà trong Phật giáo thường gọi là “Bát Chánh Đạo”, là phương cách để diệt khổ, giải thoát, đạt đạo hay về cõi niết bàn, sau khi ta ý thức đặc tính của cuộc đời theo tinh thần “tứ diệu đế” của Đức Thích Ca Mâu Ni. Như vậy theo tôi, “tứ diệu đế” và “bát chánh đạo” là hai vấn đề then chốt nhất của Phật Giáo. “tứ diệu đế” giúp ta hiểu được bản chất của cuộc đời trần thế gồm bốn đặc điểm: là khổ, nguyên do khổ, có thể diệt khổ, và phương cách diệt khổ. Còn “bát chánh đạo” là phương cách để diệt khổ, giải thoát khỏi kiếp luân hồi tùy theo trình độ tu học và phước báo của mỗi người đã thành đạt trong kiếp nầy hay nhiều kiếp trước. Trở lại vấn đề “Chánh Ngữ”; như đã nói “Chánh Ngữ” là một trong tám nguyên tắc hành động liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau. Tóm tắt tám nguyên tắc hành động đó là:

1. Chánh kiến = thấy đúng

2. Chánh tư duy          = nghĩ đúng

3. Chánh ngữ = nói đúng

4. Chánh nghiệp          = hành động đúng

5. Chánh mạng           = phương tiện mưu sinh chân chính

6. Chánh tinh tấn        = cần mẫn và nổ lực chân chính

7. Chánh niệm             = ý thức chân chính

8. Chánh định             = thiền định chân chính.

HL: Tui lại tìm ra một định nghĩa nữa về Chánh định (samadhi) là giữ tâm an trụ vào một điểm, là gom tâm vào một đề mục, và hoàn toàn không hay biết gì khác ngoài đề mục ấy. [Đức Phật và Phật pháp của Narada: trang 540 hay chương 36: Con đường Niết Bàn (II)]. Và cái này là cái tui đang theo.

.....Liệt kê ý tóm tắt như vậy dĩ nhiên là rất khó hiểu; nhưng mỗi nguyên tác hành động trong Bát Chánh Đạo mang nhiều ý nghĩa triết lý sâu xa, không thể nào cùng một lúc mà giải thích cho cặn kẽ được. 

HL: Niệm được ví như một tờ giấy mỏng để viết thơ (loại pelure). Vấn đề quăng tờ giấy về một hướng hay tới một nơi nào đó lại được ví như là mục đích của tu sĩ. Về phương hướng chúng ta có hai hướng:

1. Hướng vào trong tâm

2. Hướng ra ngoại cảnh hay tới một cảnh giới nào đó.

Để cho có hiệu quả chúng ta phải có một cái lực nằm trong cái niệm đó. Cái đó được gọi là niệm lực. Một ví dụ để cho rõ: Một lực sĩ ném tạ xa nhất thế giới và đứa con 8 tuổi của tui cùng thi đua ném tờ giấy trên. Lực sĩ để nguyên tờ giấy như vậy và ném: Chúng ta sẽ thấy ngay tờ giấy xoay vòng trong không gian và rơi xuống cách Lực sĩ cỡ 2 mét là cùng. Nhưng nếu đứa con của tui, nó gói một cục đá nhỏ vào trong tờ giấy và cũng ném thì chúng ta có ngay kết quả là tờ giấy bay xa hơn, tuy rằng con tui sức yếu hơn.

Bởi vậy khi người ta nói tới Niệm là người ta nói tới Lực. Vì Niệm mà không có Lực là vô ích vì không có tác dụng và rất tốn thì giờ.

Hai Lúa.

552
0.99519085884094 sec