
6. Kinh Kim Cang
Tập Tin II
Bài 6. Kinh Kim Cang
Nghe chuyển âm:
17038- Kinh Kim Cang
HL:
- Nhục Nhãn: là con mắt thịt, con mắt này cần phải có khoa học để sửa chữa (đeo kính, nhỏ thuốc, mổ, châm cứu...)
Nhưng Phật Giáo cũng có cách: Muốn hết tất cả bệnh đau mắt thì nên làm như tay Nhựt Tịnh Ma Ni với Chân ngôn:
Án, độ tỷ, ca dã độ tỷ, bát ra phạ rị nảnh, tát phạ ha.
Có Quý vị nào thử cách của Phật Giáo chưa? Ngoài ra nhục nhãn, nếu thanh tịnh do tu tập hay là có khi do tai nạn, thì có thể thấy hào quang của những vật thể (khoáng vật, thực vật và sinh vật) và cũng có thể thấy cả cái năng lượng phát ra từ những vật thể ấy.
- Thiên Nhãn: là cái thấy xa về không gian (khoảng cách) và thời gian (những kiếp sống quá khứ và tương lai). Do vậy, Cái thấy này còn biết nguyên nhân của sự sai biệt giữa những chúng hữu tình này, như: các vẻ đẹp, các sự khôn ngoan, các sự hên xui, bệnh tật, tai biến...
- Pháp nhãn: là cái thấy về các cách tu tập của tất cả các chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới trải dài từ các cõi Dục Giới có nghĩa là từ: A Tỳ cho đến cung trời Tha Hoá Tự Tại, rồi đến các cung trời Hữu Sắc (có nghĩa là từ Sơ Thiền cho tới Tứ Thiền) và sau cùng là các cung trời Vô Sắc (có nghĩa là từ Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ).
- Phật nhãn: là cái thấy đầy đủ của bốn cái nhãn trên. Vì trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới: có những chúng hữu tình có những khả năng trên nhưng không đầy đủ, và không đủ mạnh như một Đức Phật: Có nghĩa là các Ngài có đầy đủ bốn cái nhãn trên với một cường độ rất là mạnh. Như vậy, khoa học là cái gì trong những cái thấy trên? Tất nhiên, nếu so sánh với những người Phật Giáo mà *Tu_Chưa_Xong* thì khoa học vẫn còn chỗ đứng và rất là có chất lượng. Nhưng đối với những người tu đã xong rồi, thì khoa học chỉ là vườn trẻ và là những vấn đề không đáng nói đến.
KKT: Còn thiếu chưa nói đến Huệ Nhãn, huynh HL. Huệ Nhãn (của hàng Thanh Văn) khác với Pháp Nhãn (của hàng Bồ Tát) như thế nào?
HL: Chào Huynh KKT cùng các Bạn.
Noel này, đệ bận tiếp khách (liên tục mấy ngày nay) nên trả lời có thiếu sót. Huệ Nhãn: là cái thấy ra con đường đi đến chân lý của từng Con Người một. Vì dành riêng cho Con Người, với cái thấy này, hành giả có thể biết được: Tâm ù lì biết tâm ù lì, tâm Tham luyến, biết tâm tham luyến; tâm sân hận biết tâm sân hận v.v... để tránh sự hiểu lầm, nên đệ cho ví dụ:
- Ví dụ một: Một người tu sĩ đến ngồi trước mặt và không nói gì cả. Hành giả muốn chỉ điểm khuyết điểm của vị này thì hành giả dùng Huệ Nhãn để tìm.
- Ví dụ thứ hai, về Huệ Nhãn: Huệ Nhãn có thể nhìn ra những nét chính và nét phụ của nghiệp quả như: Người Bất Hiếu thì sẽ bị gì (sẽ bị những hiện tượng phá sản), người bị nghiệp sát thì sẽ bị gì (nhẹ nhất là quên trước, quên sau...) v.v... Từ đó, hành giả mới có một sự hiểu biết đầy đủ về đối tượng. Sự hiểu biết này rất có lợi cho việc tìm ra cách tu tập cho đối tượng, như tìm một đề mục để thiền định, tìm ra cách xả thiền, tìm ra cách giải thích những hiện tượng khi đối tượng gặp phải, khi tu hành.
Cách giải thích này phải có hai đặc tính là *Có Văn và Có Nghĩa* chớ không phải là *Có văn mà không có nghĩa*. Do dùng riêng cho Con Người nên có vị lại chia ra như vậy (Huệ Nhãn chỉ là cái thấy của bọn Tiểu Thừa). Tuy vậy: khi đệ phỏng vấn các vị có đủ các thứ này thì đều nhận thấy rằng:
Sư Cô Ngọc (Đại Ninh):
-- Nó cũng là pháp nhãn.
Thầy Thiền Tâm (Đại Ninh):
-- Nó là cái biết của cái chơn như khi đối trước một đối tượng.
Anh Sơn:
-- Nó chỉ là cách đặt câu hỏi của mình, khi mình ở vị trí của cái thấy, (vốn là cái chơn như) và đối trước cái khung hình (chữ của Anh Sơn).
Thầy Chơn Kim (Cầu Đất, cách Đà Lạt 10 cây số):
-- Nó cũng vậy, không khác.
KKT: Huynh HL vừa là A Na Hàm vừa là Bồ Tát cấp 8 tức là huynh HL có đủ cả Huệ Nhãn lẫn Pháp Nhãn?
HL: Đệ có đủ hai cái này, nhưng chưa có mạnh lắm.
KKT: Khi nào thì huynh HL dùng được những “nhãn” này?
HL: Khi bị bí và đụng vách tường.
KKT: Trong cơn thiền định?
HL: Câu hỏi này hay à nghe. Trong cơn thiền định khi nghiên cứu cõi giới thì hành giả không biết là mình đang ở đâu. Thì đây là lúc dùng huệ nhãn và pháp nhãn để biết. Ví dụ mình đang đụng phải một bà quỷ chẳng hạng thì chính hai cái thấy này mà mình biết đây là Tỳ Na Dạ Ca chẳng hạn và sau đó là cách dạy cho vị hữu duyên này biết thế nào là... lễ độ.
KKT: Lúc bình thường trong đời sống hàng ngày có dùng được không?
HL: Lạm dụng nó (nhất là sử dụng nó mà không bộc lộ được cái tính cách giáo dục) thì sẽ bị các vị Hộ Pháp nhắc nhở. Cho nên tuy rằng có đó... mà cũng như là không có. Vả lại khi làm như vậy: thì ai cũng có cái cảm giác như là mình *chơi ăn gian* nên với trực tâm thì đệ chưa thấy ai làm cả. Cũng có lẽ là vì... chuyện thế gian là những chuyện... không đáng để dùng những phương tiện này.
Mến.