
160. Chuyện Valentine
Tập Tin II
Bài 160. Chuyện Valentine
34285- Chuyện Valentine
HL: Trong những email trước, Huynh bt hỏi:
b. Sự đổ vỡ của chính họ
Thông thường là do cái nghiệp sát nó gây ra: Họ phải trả cái nghiệp sát hay hại người trong gia đình! Vì cái nghiệp này đang hoành hành nên thân thể họ hay phát ra những ác xạ làm cho mọi người tự nhiên xa lánh. Rõ ràng nhất là: Tự nhiên họ lại sinh ra một cái mặc cảm gì đó và họ bị ám ảnh bởi nó. Do kẽ hở này mà ác xạ có dịp phát ra rất là mạnh. Và làm cho mọi người xa lánh.
bt: Có bao nhiêu cách để làm tiêu đi Ác Xạ này? và cách thức như thế nào?
HL: Chuyện Tàu: Quan Công trong Tam Quốc Chí tập trung tư tưởng để đánh cờ trong khi vị bác sĩ mổ sống cánh tay của Tướng quân để lấy mũi tên ra.
Chuyện ta: Nguyễn Công Trứ ngồi đan sọt bên đường không nghe được tiếng ồn của toán quân trinh sát mở đường cho Vua đi: Một anh lính đã lấy mũi giáo và đâm vào đùi của Ngài, Ngài không hay biết Đau là một ác xạ, vì đau làm cho thân thể và trí óc... khó chịu! Như vậy muốn thoát khỏi ác xạ thì phương tiện là khả năng tập trung tư tưởng phải được huân tập. Trong điều kiện này: Chỉ cần... Cận Định thì ác xạ đã tiêu ma và không có cơ hội phát ra nữa.
Cận định: Tập trung tư tưởng trên một đề mục còn đang di động: Như nước cờ thế mà Quan Công đang cố gắng giải. Như chuyện quốc gia mà Nguyễn Công Trứ đang để hết tâm vào đó!
Về tình trạng của một tu sĩ thì chỉ cần để ý và chú tâm vào hơi thở theo cách sau đây: Nhắm mắt 100%, rồi để ý vào hơi thở ra vào tự nhiên. Cứ mỗi lần hít vào thì hành giả để ý đến và làm cho các cơ bắp thư giãn theo trình tự như sau:
1. Khởi từ các ngón chân:
Hít vào, hướng tâm vào các ngón chân, khi thở ra thì lúc này mới ra lệnh cho các bắp thịt ở vùng này thư giãn ra và đồng thời hành giả có cảm giác nằng nặng và ấm.
2. Lên đến cổ chân: Làm lại như trên và nhớ... di chuyển cục hơi ấm từ các ngón chân lên ngay cổ chân. Có vị làm được cả hai bên, có vị lại làm từng bên một.
Chân bị cụt (do tai nạn) thì đến đây lại có người có cảm giác đau ở phần... bị cụt. Để đối trị chỉ dùng châm cứu, hay nhất là tìm ra ông thầy ở Tứ Thiền Hữu Sắc. Ông này sẽ châm vào những biệt huyệt, những biệt huyệt này (A Thị Huyệt) sẽ làm ổn định cái hào quang ở vùng này và sẽ làm cho cơn đau biến mất.
3. Kế tiếp là lên đầu gối, rồi háng rồi hậu môn:
Nhớ chỉ là vùng hậu môn thôi! Chớ không nên thư giãn luôn cái Protaste (tiền liệt tuyến). Vì lở làm thì, trong lúc ngủ ngay đêm hôm đó, thì có vị (dân nam nhi) sẽ bị xuất tinh mà không có bị giấc mơ chi phối.
4. Rồi cứ như vậy mà thư giãn lần hồi theo hướng đi lên này mà làm cho hết cả thân thể. Làm như vậy thì ác xạ giảm rất là nhiều. Nhưng chưa tuyệt căn. Phải vào Sơ Thiền thì mới có thể diệt được ác xạ của tình yêu được.
bt: Trong một chuỗi dài Nhân Quả, một cá nhân nào cũng có quá nhiều Ác Nghiệp (nghiệp sát) cũng như Thiện Nghiệp. Một người sống như thế nào thì tái sinh mới tốt (không bị nghiệp sát hay ác xạ hoành hành).
HL: Tàm (biết mình cũng chỉ là dân cà chớn theo kiểu: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi phần. (Hello! Hew Hay) là yếu tố đầu tiên. Nghiệp sát nó “đập” mình dài dài khó thoát nó lắm. Đệ chỉ có kinh nghiệm bản thân và cũng như theo lời của Ngài Thiền Tâm ở Đại Ninh là: Một mạng mà mình cố gắng hết mình để cứu họ thì... đổi được 10 mạng mà mình vô tình giết. Như vậy trong vòng 10 năm giang hồ ăn cơm nhà vát ngà voi cho thiên hạ (chữa bệnh thí) và đến khi đệ gặp Anh Sơn (1991) thì Anh kinh ngạc tuyên bố:
-- Thật là không ngờ! Một người không còn nghiệp sát chi phối!
bt: Vấn đề Nhân Quả thiệt quá rắc rối và phức tạp, Trong quá trình nghiên cứu, Chú có đúc kết lại những cách sống như thế nào để có được Hạnh Phúc đời này và ở tương lai không? Nếu có, xin chú cho bt và bà con được mở rộng tầm mắt.
HL: Không phải đệ mà là chính Đức Bổn Sư trong những câu Pháp Cú sau đây (Phẩm song yếu):
15. Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.
16. Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó vui, nó an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm.
17. Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: 'Ta làm ác'
Đọa cõi dữ, than hơn.
18. Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: 'Ta làm thiện',
Sanh cõi lành, sướng hơn.
Mến.
TB: Chào Các Bạn. Phạm Ngũ Lão chớ không phải là Nguyễn Công Trứ.
Minh: Xin Chào Huynh Hai Lúa:
Khi nghiệm lại nguyên nhân đau khổ của kiếp này thì một hành giả không có thiên nhãn chỉ có thể tìm ra nguyên nhân ở kiếp này thôi. Cái này phù hợp với tinh thần khoa học: An effect is a result of a cause in one life time. Với mắt trời (thiên nhãn) thì Huynh HL có thể kiếm ra nguyên nhân từ trong các tiền kiếp. Theo sự nghiên cứu với mắt trời thì Huynh làm sao biết cái nghiệp của mình nó chạy theo mình từ một kiếp này tới kiếp sau? Xin cho Minh hỏi anh HL lại một cách khác cho dễ hiểu? How does Karma (Cause and Effect) work?
Xin cám ơn Huynh HL,
HL: Chào Huynh Minh.
Với thiên nhãn thì đệ có những kinh nghiệm sau đây:
Công thức 1:
Thực hiện chánh định nơi khuyết tật của thân thể thì sẽ biết được nguyên nhân của ác hay thiện nghiệp.
Thực hành:
Thằng oắt tỳ (con của đệ) 10 tuổi rồi (1998)! Nó sẽ vào tuổi trưởng thành và sẽ có những tư tưởng về tình dục. Internet và bạn bè của nó là một môi tường rất là tốt để cho nó tò mò và bàn luận về chuyện này. Làm sao cho nó biết rằng: Nếu lạm dụng thì con người sẽ bị bịnh hoạn. Thế là đệ bỏ ra một thời gian để nghiên cứu những nàng hay chàng ở trên internet. Chỉ cần chưa tới một tháng thì trên mí mắt phải của đệ lại mọc ra những cục da dư.
Chỉ cần như vậy là đủ.
Vào một buổi chủ nhật, hai cha con bàn luận về một đề tài là “đã là dân chơi thì nói việc mình làm và làm việc mình nói” thì đệ sực nhớ ra cái trò “tà đạo” vừa rồi của đệ và chỉ cho nó coi cái con mắt phải của đệ và hỏi nó câu:
-- Tại sao mí mắt của tui bị như vầy?
-- Bị gì?
Thay vì trả lời thì đệ đọc cho nó nghe cái công thức 1 ở trên:
-- Thực hiện chánh định nơi khuyết tật của thân thể thì sẽ biết được tác động của ác nghiệp hay thiện nghiệp.
-- Là làm sao?
-- Quán một màn ti vi, rồi để con mắt của tui vô đó rồi anh coi nó bị gì?
Thằng oắt tỳ làm liền. Chưa tới 2 phút sau thì nó nói:
-- Tại vì Ba nhìn bậy bạ mà nó mọc những miếng da dư ở trên mí mắt, đưa đây con cắt nó đi.
-- Thôi để đó làm kỷ niệm!
Qua câu chuyện trên, thì một ác nghiệp có những tác động sau đây:
Bước 1:
Ác nghiệp làm xáo trộn hào quang ngay chỗ hay bộ phận mà mình sử dụng để thực hiện cái ác nghiệp.
Bước 2:
Nếu mình cứ tiếp tục làm thì hào quang chỗ đó yếu đi, rồi vì cứ tiếp tục làm nên thần kinh chỗ đó yếu đi, kế đến mạch máu sẽ nhỏ lại và không đem chất bổ đến ngay chỗ đó nữa.
Bước 3:
Nếu cứ tiếp tục làm thì bắp thịt chỗ đó yếu đi và sau cùng là sẽ bị mất (do giải phẫu, hay do tai nạn)
Đại để là như vậy.
Với công thức 1:
Thì đám lu bu ở Đà Lạt rất là thỏa mãn.
Anh T. vói hai ngón tay cái không bằng nhau: Nghiệp là ăn chia không đồng đều.
Anh P.N. hào quang và dây thần kinh ngay cổ rất là yếu: Anh có tật là vặn cổ gà và bóp cổ heo rất là nghề! Nhờ huân tập từ tiền kiếp nên cổ con heo rất là to mà nhìn anh bóp cổ nó và làm cho nó chết một cách dễ dàng... thấy cũng hay thật là hay vậy.
Cô T. lưng hay nổi mụt nhọt: Vác đồ chạy khi đi ăn cắp vặt. Cũng Cô T.: mắt hay bị vật lạ bay vào: Dùng thuốc độc nhỏ vào mắt người yêu và làm cho người đó bị mù. Anh B.D: mắt rất là tốt nhưng hàng long mi lúc nào cũng như bị ướt và kèm nhèm: Bị nhỏ thuốc độc và cứ bị chảy nước mắt hoài cho đến khi bị mù! Và vì căm thù nên ngay bây giờ (hiện kiếp) còn mang hình tướng này...
Anh T hôi miệng: Nghiệp nói xạo.
Đệ bị câm: do nhét giẻ vào miệng thiên hạ và tra khảo họ.
Đệ bị quên, lộn, nhớ không dai: Dùng trí thông minh để hại người. Đệ loạn thị: mắt nhìn đồ... bất tịnh (Huynh hiểu ý đệ muốn nói gì chớ?)
BY: Hay quên, không nhớ: Theo Anh HL giải thích ở trên thì nghiệp quên vì dùng trí thông minh để hại người... BY xin hỏi thêm...
(1) Thông thường thì hay quên, nhưng khi muốn nhớ thì nhớ rất chi tiết, nhớ thiếu điều trở thành Walking Dictionary như Anh KKT luôn, nhưng tới chừng muốn quên (tức là những chi tiết đó không còn hữu dụng nữa) thì quên sạch nhách hết, nhắc lại cũng khó nhớ hay là không nhớ... Trường hợp nầy là phước hay là nghiệp?.. Tại sao lúc thì nhớ lúc thì quên vậy?...
HL: Vì Chị thiện xảo về dụng tâm nên Chị có thể điều khiển cái tâm mình y như lái xe vậy tới lui đều tự tại. Cái này nó xuất phát từ cái trực tâm, thấy sao nói vậy, không uốn éo như con lươn. Đây là một điều quý.
BY: (2) Có cái mặt chầm bầm, nếu nhìn theo mặt thì tưởng đang buồn, đang giận, đang sầu não thúi ruột, nhưng mà hỏng phải vậy, chỉ là tại cái mặt chầm bầm hỏng cười vậy thôi... Cái nầy là phước hay là nghiệp? Và nhân gì mà có mặt như vậy?
HL: Tại Chị nó vậy đó. Một khuyết điểm là cái tâm của chị nó không được... vui khi Chị làm vipassana. Nên khi nó vipassana nhiều thì nó... vậy đó. Còn nó vui khi biết mình có thể vipassana nhiều chi tiết và hay như vậy thì cái mặt nó khác.
BY: Nghe kể là hồi thời đức Phật, có người kia không cho một vị tăng một cục đất sét để trám vào mấy chỗ lũng dột ở tịnh thất của vị tăng, nên người kia kiếp sau bị da mặt xấu... Không nghe kể chuyện người có mặt chằm vằm...
(3) Đọc đoạn Anh HL chỉ cách “dừng ác nghiệp” bằng thiền quán... Tại sao mình phải hít thở, dồn hơi vào ngón chân, bàn chân, cườm chân, dần dần lên đến hậu môn thì ngừng? Tại sao chỉ thực hiện bên nữa người dưới thôi? Tại sao đem chú ý về các điểm đó, và hít thở dồn hơi vào đó? Anh HL có thể giải thích lý do phía sau cách thực hành đó không?
HL: Chị đọc lướt thì không có kỹ: Chị đọc thiếu cái đoạn này:
4. Rồi cứ như vậy mà thư giãn lần hồi theo hướng đi lên này mà làm cho hết cả thân thể. Làm như vậy thì ác xạ giảm rất là nhiều. Nhưng chưa tuyệt căn. Phải vào Sơ Thiền thì mới có thể diệt được ác xạ của tình yêu được.
BY: (4) BY cảm giác được trước hay là ngay khi chuyện xảy ra, và cảm giác nầy nằm ở ngực, trên mỏ ác, ở xoang mặt và 2 bên màng tang... Tức là khi có chuyện phiền sắp xảy ra thì ngực nghe nằng nặng, lúc nầy BY muốn check cho kỹ thì mỏ ác, 2 màng tang và xoang mũi, tùy theo chuyện phiền lớn nhỏ (theo tánh tình của BY mà định lớn nhỏ) thì những chỗ nầy nặng nhiều hay nặng ít... Thêm nữa là tâm của BY thay đổi đề mục liên tục và rất nhanh... Trong những lúc nầy, giấy tự nhiên rớt xuống đất, đồ để ngay đó mà mắt nhìn không thấy v.v... Vào những lúc nầy BY không biết làm gì, thì cứ ngồi yên, trụ tâm, gia tăng thiền quán v.v... Tức là ngồi thiền, đứng thiền, đi thiền, cứ thiền đại trong bất kỳ tư thế nào...
Nếu BY thực hành thiền quán trước, thì tới khi chuyện xảy ra, người đối diện nói một lúc thì tự dưng họ “loose steam” giống như họ quên câu chuyện họ muốn nói với BY là cái gì, họ khựng, họ quên, họ loay hoay như tìm trí nhớ xem họ muốn nói với BY cái gì... Vào lúc nầy BY nói thật lòng như vầy: “Tui đang lo cho you... You có sao không? You relax được không? Thôi nghĩ chút đi rồi mình tiếp tục nghe... Thì họ ờ ờ ờ như người dễ nghe dễ dạy, rồi thì êm lúc đó, chỉ là lúc đó thôi... Sau khi chia tay rồi, thì họ suy nghĩ và làm theo nư của họ, BY chịu thôi không làm gì được... Nếu họ giận nhiều và lâu thì BY nghe ở phần cuối lưng nằng nặng, lại thiền quán tiếp...
Chừng nào chuyện sắp qua hay là đang thoát qua, thì tất cả cảm giác nặng mất liền, và cảm giác nhẹ nhàng và vui vẻ có mặt tại chỗ... BY diễn tả như vậy, nhưng không biết chuyện gì là chuyện gì, chỉ biết trụ tâm thì quán thì việc xảy ra ngồ ngộ vậy thôi...
HL: Cứ y như là Yogananda vậy. Vị này có biệt tài là dùng thân thể của chính mình và biến thành cái radio để bắt các làn sóng có liên quan đến mình. Đoạn này mà Chị đọc lướt lướt thì lúa đàng Chị luôn đó nghe: chị làm như vậy là mở cửa và khi mở cửa thì gió lành nó vào được thì bụi dơ và rác rến nó cũng theo đó mà vào được luôn. Chị chỉ có một vũ khí độc nhất để tự vệ mà thôi: Đó là trau dồi cái tâm lành của mình và phát triển nó lên. Nếu không thì: Đây là tử huyệt của Chị. Thông Thường thì đệ hay chỉ cho các vị có khả năng tương tự như Chị cách Hộ Thân cho nó chắc ăn. Qua câu chuyện trên, thì một ác nghiệp có những tác động sau đây:
Bước 1:
Ác nghiệp làm xáo trộn hào quang ngay chỗ hay bộ phận mà mình sử dụng để thực hiện cái ác nghiệp.
Bước 2:
Nếu mình cứ tiếp tục làm thì Hào quang chỗ đó yếu đi, rồi vì cứ tiếp tục làm nên thần kinh chỗ đó yếu đi, kế đến mạch máu sẽ nhỏ lại và không đem chất bổ đến ngay chỗ đó nữa.
Bước 3:
Nếu cứ tiếp tục làm thì bắp thịt chỗ đó yếu đi và sau cùng là sẽ bị mất (do giải phẫu, hay do tai nạn).
Đại để là như vậy:
Thang: Anh Hai,
Anh chỉ đề cập đến trường hợp cơ quan teo lại, còn trong trường hợp cơ quan phát triển lớn ra không kiểm soát được như bịnh ung thư chẳng hạn vậy là do nguyên nhân gì và phải quán ra sao để trị nó.
HL: Trị bịnh thì Đức Phật rất là nghề khi Ngài rút ra kết luận như sau:
Có ba loại bệnh nhân:
(1) Một loại bệnh nhân chắc chắn sẽ được lành bệnh đúng lúc, dầu không uống thuốc hay được chữa trị.
(2) Một bệnh nhân chắc chắn sẽ không được phục hồi và sẽ chết vì chứng bệnh, dầu chữa trị và uống thuốc cách nào.
(3) Một bệnh nhân sẽ được phục hồi nếu thuốc men thích nghi, được chữa trị đầy đủ và đúng mức, nhưng sẽ không được phục hồi và sẽ chết nếu không dùng đúng thuốc và chữa trị thích nghi.
Khi còn chữa bệnh cho bà con thì đệ lại có kinh nghiệm như sau: Đệ mà không có duyên với bệnh nhân thì bệnh nhẹ thế nào đi nữa thì cũng không cách gì mà chữa hết được. Còn có duyên thì cái thứ gì cũng hết. Không có duyên tức là đệ không có phản ứng gì hết khi nghe tin hay đối diện với bệnh nhân, tâm nó cứ dửng dưng. Còn có duyên thì nó cứ y như là đệ mắc nợ người ta vậy, không cách gì mà rứt ra được cho đến khi mình chữa xong bệnh thì mới thôi. Về ung thư (cancer) thì... đệ cay cú cái bệnh này nhất. Má đệ chết vì ung thư tử cung, trong lúc đệ tu hành còn không ra gì và bí lối tùm lum tà la.
Sau này có đủ thứ con mắt, có tay Chuẩn Đề nên đệ dành rất nhiều thời giờ để nghiên cứu con bệnh này:
1. Thần Nhãn:
Ung thư nó có biểu hiện trên cái hào quang như sau:
Chỗ bị ung thư phát ra ánh sáng cam nâu và trong ánh sáng này nó như là có bụi vậy (bụi y như gió thổi bụi bay thành cơn lốc ở chỗ đất trống vậy). Biểu hiện này cũng có, khi bị... hoại thư.
2. Thiên Nhãn:
Thực hiện chánh định vào nơi này thì phát hiện ra nguyên nhân sau đây. CaiThu Ra (Chữ của NQS): Nguyên nhân là Nghiệp Sát.
1. Bị chất độc.
2. Khối u lại có nồng độ carbon rất là cao
3. Lao tâm và lao lực lâu dài:
Bị lao tâm và lao lực thì sinh thái của con người thay đổi và nếu cứ bị như vậy hoài thì đến lúc DNA cũng bị ảnh hưởng và... thay đổi cấu trúc, sự thay đổi này làm cho DNA bị kẽ hở và tế bào ung thư (mà ai cũng đều có) có cơ hội... mở khoá và móc nối với hệ thống sinh học này và một khi đã móc nối được rồi thì nó phát triển bừa bãi bằng 2 cách:
1. Tạo thành những khối ung thư tại chỗ
2. Bằng cách phân thân ra (như bụi phấn hoa vậy) và nhảy tùm lum.
Chữa trị:
Vào giai đoạn cuối của chuyện chữa bệnh theo kiểu trả nghiệp của đệ thì đệ có cơ hội chữa bốn lần ung thư:
1. Ung thư ruột già: Bà bán bánh bèo này chỉ còn da bọc xương khi đệ đến nhà của bà: Bác sĩ nói là bà về nhà vì hết thuốc chữa. Đệ dùng kim hoa mai (một loại kim châm cứu có cái cán cầm và đầu kia thì có gắng năm cái kim y như cái đồ xâm mứt gừng vậy). Đệ ngồi nguyên một đêm và chỉ gõ nhẹ nhàng cái huyệt Khúc Trì (huyệt hợp của đường kinh Đại Trường). Cho đến sáng, đệ mệt đến gần chết và bệnh nhân thì y như là trong phòng tra khảo vậy: Chấn động của các mũi kim vào huyệt Khúc Trì sau một đêm nó làm cho cả người bà giựt bắn người khi mũi kim đụng nhẹ vào vùng này.
Hết bịnh: Đến sáng, bà mửa ra một trái chuối màu trắng hôi rình toàn là mủ. Và đi cầu toàn là máu và mủ hôi thúi không thể tả được. Sau đó chỉ uống trà già của chùa Linh Sơn, rồi ăn cháo và bà lành bệnh.
2. Hai lần sau là ung thư tử cung, đệ dùng Mandala Của Ngài Văn Thù Sư Lợi mà chữa lành.
3. Lần cuối cùng là ung thư ngực của bà xã: Đệ lại dùng chày kim cang, đệ làm cho khối u biến mất trong vòng một đêm. Bốn lần như vậy đệ đều bị hết sức và y như chết đi sống lại vậy.
Thang: Quán như thế nào để trị nó?
HL: Dùng Kundalini thì có thể cầm chân nó lại (Thầy của Vivekananda). Ngài chết vì ung thư cổ họng. Thông thường, những bệnh nhân mà đệ dùng vòng phép (Mandala) để chữa lành thì đều nói rằng: Họ nằm ở trong ánh sáng chói chang màu vàng, và màu trắng (hai người đều đưa ra hai kết quả khác nhau: người thì màu vàng, kẻ thì màu trắng). Ánh sáng nó chan hoà từ đầu đến chân và thấm nhuần vào cơ thể khi họ đi ngủ. Và chày kim cang thì làm cho bà xã đệ ngủ vùi một đêm không mơ, không mộng. Ngủ như chết và sáng dậy thì khối u biến mất.
Có thể quán như sau: Mình ngồi hay nằm ở dưới một vị Bồ Tát nào đó, chẳng hạn như Quan Thế Âm và Ngài phóng quang cứu độ. Yogananda lại quán hình Tôn Sư của Ngài, cái hình mà Ngài treo trong phòng ngủ, phát ra ánh sáng và ánh sáng này xuyên vào thân thể của Ngài và chữa lành bệnh.
Minh: Xin Chào Huynh Hai Lúa:
… Thiệt là Hay! Thiệt là Hay! Huynh HL!
Dạ đệ hiểu!! tại Huynh nhìn bậy nhìn bạ quá mà làm loạn mắt luôn. Đệ cũng bị loạn thị thì nay cũng hiểu ra tại mình cũng nhìn bậy nhìn bạ mà phải chịu nghiệp xấu ngay kiếp này! Nhưng đệ còn thắc mắc là làm sao cái quá khứ từ kiếp trước nó có ảnh hưởng đến bây giờ như ung thư mà một ĐH khác vừa hỏi anh Hai. Hay là khi Huynh HL có định rồi quán thì thấy câu trả lời trên màn ảnh TV. Đệ muốn biết là làm sao cái nhân xấu từ kiếp trước nó có ác xạ tới kiếp này? Cái nhân xấu nó được cất ở đâu mà nó chạy ra từ kiếp này tới kiếp sau vậy Huynh?
Xin cám ơn Huynh HL rất nhiều!
Đệ-Minh-otnm
HL: Tiểu Thừa thì không giải thích được cái kho của Nghiệp quả và cái địa chỉ nó nằm ở đâu y như Huynh KKT và Kieu đã dẫn chứng. Nhưng thực tế khi thực hành nhiều lần thì đệ lại rút ra được cái kinh nghiệm thú vị sau đây: Nó không có gì là khó hiểu cả: Y như là internet vậy.
1. Khi mình nhập chánh định rồi tác ý quán cái màn ti vi: Tình trạng tâm thức này y như mình “on line” vậy.
2. Khi mình cho đề mục vào thì đọc được liền: Y như mình đánh cái địa chỉ thì mình có thể vào cái trang nhà đó và tìm hiểu được liền.
Như vậy: Chỗ mà nghiệp quả lưu trữ là ngay cái hình tướng, hay khái niệm mà đối tượng phát ra. Nếu cái computer của mình khi mở máy và móc vào internet thì hacker có nghề có thể vào, lục lạo và đọc một cách dễ dàng. Thì người đọc được nghiệp quả cũng y như là hacker vậy: Họ phải có đối tượng (có nghĩa là đối tượng phải “on line” (có nghĩa là đối tượng có thật) và họ phải biết cách tác ý về đề tài mà họ muốn tìm hiểu. Không có đối tượng và không có biết cách tác ý thì họ không làm được gì cả.
Minh: Xin đa tạ Huynh HL rất nhiều! Minh.
NQS: Sao đa tạ vội vậy Minh. Minh hỏi cái ác nghiệp nó lưu trữ ở đâu, huynh HL trả lời là nó như Internet. Đó chưa phải là câu trả lời. Trong kinh sách, thuật ngữ nhà Phật thì cái như Internet ấy gọi là gì? Huynh HL chưa nói điều đó mà chỉ nói rằng có nghề thì vào Internet, vậy thôi.
HL: Cái khối nghiệp nó nằm ở ngay cái “Khối Thể Xác” này chớ ở đâu nữa. Đã sinh ra là phải có nghiệp rồi. Trong thực hành thì muốn tìm thấy Nghiệp lực hay nghiệp quả thì chỉ cần Chánh Định lên đối tượng nào đó và tác ý, đặt câu hỏi thì sẽ tìm được ngay mà thôi! Đệ gọi là Khối Thể Xác là vì ngoài cái thân xác thì còn những thành phần mà một số ít người có thể thấy được: Hào Quang (biểu thị cho Tư Tưởng hay thô tâm), Luồng Bhavanga (biểu thị cho dòng nghiệp lực hay là thói quen và cá tánh tức là vi tế tâm). Đọc vào đó thì thấy rõ mà thôi.
Trích đoạn trong Đức Phật và Phật Pháp:
[...]
Bình Minh Của Chân Lý
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức khỏe và dễ dàng nhập Sơ Thiền (Jhana), tầng thiền mà Ngài đã thành tựu trong buổi thiếu thời [10]. Rồi từ đó dần dần Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an trụ hoàn toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương lau chùi bóng láng, và mọi sự vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác có liên quan đến trạng thái “Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ” (Pubbe-nivasanussati Nana, Túc Mạng Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba kiếp, rồi bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian, rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra đi, Ngài tái sinh vào cảnh nào, có tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sinh vào cảnh này.
Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách thức tái sinh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá khứ. Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một, đêm Thành Đạo. Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến quá khứ, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ “Tri Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh” (Cutupapata Nana, Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sinh vào một kiếp sống khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người đau khổ, tất cả đều trải qua hiện tượng diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người. Ngài biết rằng người này, do hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện, nguyền rủa bậc Thiện Trí Cao Thượng, tin tưởng không chân chánh và có nếp sống của người tà kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa đời, đã tái sinh vào những trạng thái bất hạnh.
Ngài biết rằng những người kia, do hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp, biết tôn trọng bậc Thiện Trí Cao Thượng, có đức tin chân chánh và có nếp sống của người có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã tái sinh vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.
Như vậy, với Thiên Nhãn Minh, Ngài mục kích tình trạng phân tán và cấu hợp trở lại của chúng sanh. Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ Nhì mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo.