63. Niết Bàn

63. Niết Bàn

Tập Tin / Tập Tin II    Xem 255     17 năm trước

Tập Tin II

Bài 63. Niết Bàn

22931- Niết Bàn

Luongson: Chỉ có 1 cái thấy duy nhất giá trị là thấy Niết Bàn thôi. Chỉ có sau khi thấy Niết Bàn nhiều lần, bứng rễ vô minh rốt ráo, thì có thể tùy hứng nói mà không sợ sai.

KKT: Trong đây có ai đã thấy Niết Bàn rồi xin mời ra nói cho bà con nghe? Vì “giờ phút của sự thật đã điểm” nên đã đến lúc chỉ nói “sự thật” thôi và dẹp ba cái râu ria blah blah… Có huynh HL đã vào Diệt Thọ Tưởng Định 4 lần có thể gọi là NB chăng? (Hello huynh HL)

SN: Rõ thật! rõ thật! Giờ của “SƯ THẬT” đã điểm? Xin Đại Sư HL cho biết trạng thái NB ra sao?

HL: Chỉ có thể gọi là Hữu Dư Niết Bàn mà thôi.

Cái chuyện NB mà dùng chữ viết để bàn là khó đúng lắm:

Có người đã định nghĩa là “Cơn mộng du giữa ban ngày”. Đọc qua thì càng khó hiểu hơn nữa thế nhưng nếu mà dùng thần thông tán láo để mà chẻ sợi tóc ra làm tư thì cũng vẫn có thể mường tượng ra được là NB có tác dụng như thế nào khi đệ đã lỡ vào đó 4 lần. Khi bị mộng du thì người ta hành động rất là chính xác như leo lên mái nhà bằng con đường... máng xối chẳng hạn. Trong khi làm cái chuyện tày trời này thì người bị mộng du không có một tý xíu nào sợ sệt cả. Và họ hành động lanh lẹ và chính xác vô cùng.

Chữ kế tiếp là “ban ngày” có nghĩa là sự tỉnh thức. Tóm lại: Người vào NB rồi thì có những hành động chính xác vô cùng và khi làm những chuyện này nọ: họ lại không còn sợ cái gì cả. Nếu chỉ dừng ở đây thôi, thì đích thị đây là một người bị mộng du!!! Nhưng vì còn kèm theo cái chữ

**Ban_Ngày** nên họ (người nhập NB) lại tỉnh táo kèm theo một sự hiểu biết cực kỳ sáng suốt đến... vô cùng. Tán thêm chút nữa, thì mời quý vị đọc những đoạn trích dịch sau đây:

Như Lai là vị có được mười Như Lai lực, có bốn vô sở úy.

Như Lai như thật biết sự kiện có xảy ra là có xảy ra, sự kiện không xảy ra là không xảy ra.

Như Lai như thật biết quả báo tùy thuộc sở do, tùy thuộc sở nhân của các hạnh nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại.

3. Như Lai như thật biết con đường đưa đến tất cả cảnh giới.

4. Như Lai như thật biết thế giới với nhiều chủng loại sai biệt.

5. Như Lai như thật biết chí hướng sai biệt của một loài hữu tình.

6. Như Lai như thật biết các căn thượng hạ của loài người, của các loài hữu tình;

7. Như Lai như thật biết sự tập nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các thiền chứng về thiền và giải thoát, về định.

8. Như Lai nhớ đến các đời sống quá khứ;

9. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh.

10. Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc tự mình chứng trí, chứng ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ tâm giải thoát.

Chính nhờ mười Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các hội chứng và chuyển pháp luân (Trung bộ III, trang 70A- 71A).

Như Lai có được bốn vô sở uý, tức là bốn điều không sợ hãi, chính nhờ thành tựu bốn pháp này. Như Lai tự nhận cho mình địa vị ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử trong hội chúng và chuyển pháp luân: Thế nào là bốn?

Này Sariputta, Tôi thấy không có lý do gì, một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Tôi đúng pháp rằng: “Các pháp này chưa được chứng ngộ hoàn toàn mà Ngài tự xưng là đã chứng ngộ hoàn toàn.” Này Sariputta, vì Tôi không thấy có lý do gì như vậy, nên Tôi sống, đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô uý.

Này Sariputta, Tôi không thấy có lý do gì, một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Tôi đúng pháp rằng: “Các lậu hoặc này chưa được đoạn trừ mà Ngài tự xưng đoạn trừ.” Này Sariputta, vì Tôi không thấy có lý do gì như vậy, nên Tôi sống, đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô uý.

Này Sariputta, Tôi không thấy có lý do gì, một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Tôi đúng pháp rằng: Những pháp này được Ngài gọi là các chướng ngại pháp, khi được thực hành thời không có gì là chướng ngại pháp cả. Này Sariputta, vì Tôi không thấy có lý do gì như vậy, nên Tôi sống, đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô uý.

Này Sariputta, Tôi thấy không có lý do gì một Sa môn, Bà la môn, Chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Tôi đúng pháp rằng: “Pháp do Ngài thuyết giảng, không đưa đến một mục tiêu đặc biệt, không có khả năng hướng thượng, không có thể dẫn người thực hành đến diệt tận khổ đau”. Này Sariputta, vì Tôi thấy không có lý do gì như vậy, nên Tôi sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô uý.  (Trung bộ I, trang 71 B).

CN: Đoạn kinh sau HL lấy từ đâu ra, ai dịch mà nghe “phàm tục” quá. Chư Phật Toàn Giác thường khôn khéo dùng chữ NHƯ LAI chứ có vị nào dùng chữ TÔI bao giờ đâu.

HL: Đó là đệ... tự ý đục bỏ và sửa lại đó chớ nguyên văn là “Ta” (Phật mà dùng chữ Ta và Ngươi nghe nó không đã tý nào cả. Mỗi lần đệ gặp các Ngài thì cách xưng hô lại là như sau: Ngài thường tự xưng là “tui” và và khi nói đến đệ thì lại dùng chữ “ông” như vậy trong câu chuyện cứ là “tui với ông” và “ông với tui”. Còn về phần đệ thì lại xưng hô là: “Thầy” với “con”. Điều kỳ lạ là: Không cách gì mà xưng được “Tui với ông” khi đối trước Pháp Thân của các Ngài.

CN: Nghe nói Niết Bàn của HL hình như cũng phải chun vô chun ra cực lắm phải không?

HL: Cũng không khó lắm đâu, nhưng khi vào lần đầu tiên thì lại không dễ tý xíu nào cả. Vì công thức để vào đó nó lại tác dụng ngay đến quyền lợi cuối cùng của mình đó là “Hơi Thở”. Ai mà đụng đến hơi thở của mình thì cái Bản Ngã nó phản ứng liền. Phải triệt tiêu được nó thì mới “chun vô, chun ra” được.

253
0.0846848487854 sec