
151. Đồ Tiểu Thừa
Tập Tin IV
Bài 151. Đồ Tiểu Thừa
Chào quý Bạn.
Đệ mần về con đường Nam Tông vậy. Con đường này thường dành cho những người lấy câu: Cần Cù Bù Khả Năng làm tiêu chuẩn. Trên con đường đi nhiều cảnh lạ này, Phật Thích Ca dùng chiêu: Điệu Hổ Ly Sơn hoặc chiêu: Chuối Nè Cưởng để dụ khị tụi mình và đưa tụi mình đi chơi trong chiều tâm thức với đầy đủ cảnh giới và hy vọng rằng: Với sự thay đổi y báo và chánh báo trong tâm thức này, thì tâm trí dốt đặc cán mai của tụi mình nhờ đó mà mở mang cái thấy. Và do đó thay đổi cách sống một cách tự nhiên và nhẹ nhàng. Một ví dụ: Ở VN, chuyện chen lấn là chuyện thường, từ vé xi nê, đến vé xe lửa... Qua đây thì không thấy ai chen lấn nhau cả, do vậy mình bỏ cái thói quen chen lấn hồi nào không biết, đến khi về lại VN, thì mình không muốn chen lấn tý nào cả! Kết quả có được một phần vì mình đã sống ở một chỗ Không Có Khái Niệm Chen Lấn.
Cùng một ý đó Phật cũng cho ta đi vào tình trạng chứng và đắc những cảnh thiền (Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền,...). Ở đây:
- Chứng là mới thấy thôi, còn yếu chưa đủ lực (Tập Tiếp)
- Đắc là ở luôn đó, hay ra vào cảnh Thiền đó rất là tự tại.
Vì tụi mình tới đó, nhờ vào kỹ thuật quán tưởng đề mục, Tâm thức tụi mình tất nhiên phải khế hợp với cảnh để chứng và đắc. Cái lợi trước mắt là:
- Sơ thiền thì tâm thức tụi mình đạt được tình trạng:
Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp.
Lời Bàn:
Cùng một lý luận trong thí dụ trên: Tụi mình thấy ở đó (Sơ Thiền) họ không có khái niệm về Tình Dục và *Chơi xỏ lá nhau nên khi mình xuất định thì tự động mình sẽ không thích hai cái tật xấu trên nữa!
- Nhị thiền thì được trạng thái: Hỷ Lạc do định sanh
- Tam Thiền thì được trạng thái: Chánh Niệm Tỉnh Giác, nội tỉnh nhất tâm (hay nhất tâm bất loạn là bắt đầu ở chỗ này đây!), ly hỷ trú xả
- Ở Tứ Thiền thì hiểu rõ tâm trạng: Xả Lạc, Xả Khổ, Diệt Hỷ Ưu đã cảm nhận ở cảnh giới trước (Tam Thiền) chứng và trú vào tình trạng tâm thức sau: Không Khổ, Không Lạc, xả niệm thanh tịnh.
Thế nhưng ở tình trạng Tứ Thiền còn có thể phân tích ra bốn cái thanh tịnh hơn nữa, đó là 4 cảnh giới Vô Sắc. Và sau cùng là ngoài cảnh giới trên: Phật còn vạch rõ con đường vào Hữu Dư Niết Bàn (Diệt Thọ Tưởng Định). Đó là tóm tắt con đường đầy cảnh giới của Nam Tông. Vì nhiều chuyện phải làm và học nên người tu Nam Tông có khuynh hướng im lặng, nín thở mà dợt cho tới nơi tới chốn! Cũng vì lý do đó mà họ mang tiếng là bọn nhỏ nhoi, chỉ lo lấy mình. Tóm lại: Đồ Tiểu Thừa!
Thân ái chào các Bạn.
TB: Hẹn thư sau đệ sẽ bàn về liên khúc từ Tiểu Thừa sang Đại Thừa.
HL:
Thế rồi, vào năm 1983, Hai Lúa đệ lọt vào Diệt Thọ Tưởng Định đợt một, sau đó đệ làm tiếp ba lần nữa. Cảm giác là mỗi lần làm xong, tâm thức đệ càng *Đông Đặc*: Một tư tưởng, thường ngày xuất hiện bất ngờ nay: Đệ có thể biết được nó khởi ra làm sao? Ở chỗ nào?...v.v... Tâm thức của đệ tĩnh lặng và chiếu sáng như một đèn pha. Đệ hướng về chỗ nào thì liền sau đó, đệ đọc được ngay. Để tránh tình trạng ảo giác, đệ đã kể cho bà xả nghe chính giấc mơ của bả trong đêm trước, hay coi bả muốn nhờ đệ làm gì thì đệ im lặng làm liền. Trong vòng 3 tháng như vậy, không biện minh, không giải thích: Bả mới nhận thấy tình trạng đặc biệt Gì Cũng Biết của ông chồng bụi đời. Bả nói: “Như vậy đối với anh, con người không còn điểm nào được gọi là tự do nữa! Ngay cả ý nghĩ thầm kín nhất, ngay cả giấc mơ (sợ rằng khi em kể lại mà còn quên) anh cũng biết thì hết rồi. Người ta trần truồng trước cái nhìn của anh! Như vậy là Tà Đạo!”. Đúng! Bả nói đúng vô cùng: Nó là cực Tà!
Cái biết, mới đầu còn là một sự hấp dẫn, nhưng sau khoảng 3 tháng nó đã trở thành một trở ngại và có tác dụng ngược là: “Ai cũng dỏm hết! Chẳng có người nào tốt hết” (hàng ngày, khi rảnh việc, đệ ngồi trước cổng chợ Đà Lạt, ngay càfê La Tulip, nay là Mộng Đẹp, để tìm coi ai là người chơi được, thì không thấy ai là người tốt cả!). Với cái ý nghĩ đó Hai Lúa đệ muốn... Vô Rừng mà ở cho nó yên thân... Tư tưởng bi quan này, cứ mỗi lần đệ bắt gặp một tư tưởng xấu, càng thúc dục đệ thực hiện ý đồ trên. Con người đệ càng trở nên nhạy cảm: Trong khi đang ngủ ngon lành thì đệ bỗng tỉnh giấc vì giao động của một tư tưởng xấu phát ra từ phía bà xả. Buổi cơm (cứ gọi nó là cơm cho dễ hiểu đi!), nhiều lúc đệ bị nặng bụng, xình bụng vì tư tưởng xấu của bả phát ra trong khi nấu nướng (khoai). Đệ cứ muốn vào rừng thôi.
Thân ái chào các Bạn
Hai Lúa.
TB: Hẹn thư sau, sẽ bàn về sự phát nguyện và chơi liều của đệ.
Thế rồi đệ gặp anh Sơn và con đường Đại Thừa khởi sự từ đó. Ảnh nói: “Anh có đủ rồi đó, chỉ cần sắp xếp lại nữa thôi”. Và ảnh cho đệ mượn cuốn Trung Bộ Kinh tập 3. Hai tên cư sĩ đều có ý đồ viết lại cách tập lạ đời này (sở dĩ đệ dùng chữ lạ đời vì khi đệ qua đây và đem chuông đi đánh xứ người thì hầu như không ai biết gì về cách này cả). Anh Sơn viết trước nhưng chịu không nỗi áp lực của nghiệp lực, ảnh bị bịnh và bỏ cuộc.
Đệ vào Diệt Thọ Tưởng Định và cố gắng nhớ lại các Tứ Đại Nguyện và sau vài lần quên trước, quên sau (Vì khi vào Diệt Thọ Tưởng Định thì đệ bị tình trạng vô ngã nó clear hết tất cả tư tưởng) thì đệ mới đủ sức tuyên bố tứ Đại Nguyện. Vì chơi ngược (ngay trong tình trạng vô ngã mà vẫn móng tâm phát nguyện), nên đệ bị tình trạng là lập lại được một bản ngã khác ngay trong tình trạng vô ngã. Bản ngã này do Nguyện Lực tạo nên, khác với cái bản ngã trước vốn là do Vô Minh tạo thành. Và rất là tự nhiên, đệ rơi vào pháp giới của Mật Tông, cảnh giới của phương tiện độ. Áp dụng các phương tiện độ, lúc đầu đệ cũng nỗi máu anh hùng chơi trò phù phép để gọi là khuyến tu, nhưng thất bại hoàn toàn vì đơn giản: Đối với người không thích tu, cho dù anh có biến hóa thế nào đi nữa: Đối với họ, anh chỉ là một thằng hát xiệc không hơn không kém (bà xả).
Nhưng đối với ai mà khoái tu, loại thứ thiệt, thì chỉ cần vài câu kệ là xong ngay 30 giây. Hệ thống Đại Thừa đề nghị đệ bỏ trú xứ là Tứ Thiền Hữu Sắc và tuột xuống Nhị Thiền để gần anh em và làm việc đắc lực hơn. Sau vài tháng trồi lên, tuột xuống vì bị tức ngực, nay đệ đã quen và trụ ở Nhị Thiền và không còn bất cứ một thần thông nào, ngoài cái linh tính và kinh nghiệm lúc trước. Tuy vậy, tùy vào nhiệt tình của đối tượng, đôi lúc đệ cũng có thể vào được Tứ Thiền để quan sát sự tiến tu của bạn bè (như chuyện anh chàng ở Nhật Bổn).
Kết luận: Khởi từ con đường Nam Tông, đệ lần mò vào con đường Bắc Tông và sử dụng các phương tiện độ của nó. Áp dụng các tiêu chuẩn của một tu sĩ:
- Lòng Hiếu Thảo
- Tính ưa giúp người.
Đệ đã thử áp dụng cách này cho một đám đầu trâu mặt ngựa, một cái đám mà bất cứ ai cũng sợ khi kết bạn:
Anh Thu: một vợ 2 con và 29 cô bồ.
Phước Nhỏ: Đặc công
Ba Danh: du đãng chém mướn
Anh Tài: vua móc túi ở rạp Vistarama (xóm củi)
Trên 10 ông, cô, anh cán bộ cao cấp
Anh Hòa: ương xì ke
Anh Hà ruby: Xì ke
Cô Vân: đau tim, điếc
Thân ái chào các Bạn
Hai Lúa.
TB: Đệ viết câu chuyện này là để khuyến tu và tạo một sự phấn khởi cho quý Bạn trong nhóm này. Vạn sự khởi đầu nan, nhưng nếu mình chịu chơi thì việc gì mà không thành?