
33. Ôm mani padme hum
Tập Tin V
Bài 33. Ôm mani padme hum
Om ma ni padme hum
Wed, 21 Jan 1998 12:05:55
MTT: “ôm ma ni pad mi hum” hay “ôm ma ní bát nhi hồng”. Đây là câu thần chú đệ đã từng lãnh giáo từ một tay thất sơn thần quyền.
Năm đệ 12 tuổi, với 3 năm khổ luyện Karaté, từ 7-10 tuổi, học thêm Thiếu Lâm và Bình Định tổng cộng là cỡ 5 năm võ thuật. Không mấy đứa bé chịu nỗi đệ vài quyền... Một hôm quen một gã 14 tuổi, ốm như cây sậy, yếu như sên, dòng dõi Thần Quyền. Máu anh hùng nổi dậy thách đánh lộn tay đôi.
HL: Chào Huynh và các Bạn.
Huynh phạm sai lầm căn bản của dân Hiệp Sĩ: Tự Nhiên gây sự thách đấu thiên hạ; do người ta *Không Động* mà mình Động nên thần lực (chính khí) yếu và vì vậy mà uýnh với họ là te tua. Trường hợp của đệ là anh chàng khiêu khích đệ và rủ đệ ra sân banh Tiểu Đoàn 22 Sinh Viên Sĩ Quan Long Thành.
Đệ xơi tái xếp đó chưa tới 2 phút.
Một lần nữa là một anh em không chịu gác (người lính anh dũng đó có biệt tài là đánh thì không đau và đệ cũng xơi tái với một gậy vào mông là te tua (ướt quần luôn).
Họ có lỗi là mình xơi họ được liền, còn họ không có lỗi thì có khi mình tiêu đời trai.
Đó là luật công bằng của Vũ Trụ.
MTT: Hai đứa ra sau sân trường giao đấu. Với sức công phá 2 cục gạch từ năm 10 tuổi và mình tẩm đầy thuốc Mai Hoa Quyền. Đệ đánh gã kia như một cái bao tời. Gã bị trúng mười cú thì đệ mới lãnh một cú, thế mà nó vẫn xông vào. Hình như gã chả biết đau là gì, kể cả sử dụng đòn vai của Nhu Đạo với kỹ thuật ném đặc biệt, khi ném nửa vời thì nhấn đầu địch thủ hướng tới trước (là đòn sát thủ!) cũng chẳng nhằm nhò gì (Phải hỏi anh Bình về đòn này), “Hạ Sáp Chưởng” của Võ Đang cũng như không. Sau cỡ 5-10 phút đánh với “xác chết biết đi” thân thể đệ gần như trái chuối dập, bao nhiêu cái biết đã được xài hết rồi... Miệng gã cứ lắp bắp “ốm ma ni bát nhi hồng...”. Đến khi gã để hở, đệ đá vào “bộ hành quân” một cước trước khi bị kiệt lực. Nào ngờ gã lăn quay ra dãy dãy và “đã bị xuất thần”. Nhìn lại Thân hình gã chỉ xây xác sơ sơ, chỉ có lưng là máu me tùm lum vì bị đệ đá bay vào hàng rào kẽm gai mấy lần. Sau khi bị đá đến xuất thần gã nằm nhà 3 ngày thì đã đi chơi được rồi. Còn đệ thắng trận phải thoa thuốc “Mai Hoa Quyền” đến gần một tháng.” - Nhớ tới còn sợ. Địch thủ trúng mười đòn, mình chỉ trúng một đòn mà sém chết! Võ công của đối phương dở không tưởng nỗi, thần quyền chỉ mới học có 6 tháng, mà đệ phải bỏ năm năm trời. Từ đấy cho đến nay, hễ nghe ai đọc câu ấy là đệ cảm thấy lạnh xương sống.
Có phải thần chú có thật không? Thần Quyền là gi?
“ôm ma ni pad mi hum” xuất xứ từ đâu?
HL: Thần chú có thật và là cái xe chuyên chở thần lực. Chơi Mật Tông thì biết liền.
MTT: Xin các huynh tỷ cho ý kiến. Tại sao con người lại vào trạng thái khủng khiếp như thế. Tại sao cơ thể không bị thương nặng. Đã từ lâu đệ không giải thích nỗi và cũng chả biết hỏi ai. Nhân tiện huynh Hùng nhắc đến nên tiện đây xin chỉ giáo.
HL: Khi đọc và tác ý nhập, do tác ý này mà các *Điện Thần Nhân* Chui vào qua các huyệt ở bả vai, hay sau ót, Họ ép cái linh hồn của mình vào Tùng Quả Tuyến Hí Hí và theo thời gian, họ chiếm ngữ toàn bộ hệ thân kinh và kinh mạch của mình. Tập cái này làm phát triển Huệ Âm có nghĩa là tự mình thì không biết ất giáp gì mà hễ họ nhập vào thì nói này, nói nọ, đấm đá cũng ra hồn, ra phách lắm. Khác với tình trạng Huệ Dương là tất cả hiểu biết đều do chính mình học hỏi và làm ra. Thường thì người bị nghiệp sát nhiều thì họ (Điện Thần Nhân) mới nhập được còn không thì họ khó vào lắm.
Biết rõ như vậy thì giải:
Thuốc Nam: Cho xơi bí rợ (bí đỏ) để bổ thần kinh, ăn cho tới chảy máu cam và cho nhập một phát nữa: Nó sẽ hành người đó một tăng nữa rồi có kêu nhập thì cũng không được nữa
Thuốc Bắc: Chu xa và Thần xa hoà lại và viết với một nét bút lông theo một liều lượng được trá hình dưới một chữ gì đó (như một chữ tàu) và cho uống. Nó cũng sẽ nhập một lần nữa và hành hạ thể xác như tự đập đầu vào vách đấm vào vách tường, la hét chạy nhảy,... một tăng sau cùng là hết luôn.
Mật Tông: Hồi hướng công đức cho những ông thần đó bằng Chú “Tôn Thắng Đà La Ni” (có cho không ở các chùa). Nếu có nhân duyên thì đọc một phát một là hết.
Một câu chú kinh người!
MTT: Lúc đầu gã ấy đọc “Búp tha, búp sa, Pháp sư, Hoả sư” để lên thần... rồi sau đấy là “ôm ma ni... ”
HL: Nó kêu ông Thầy tới đó (còn đọc là còn dở, do mới tập, chứ nhà nghề thì họ chỉ cần nghĩ tới thôi là nhập liền) bằng câu chú đầu tiên đó và sau cùng là dùng Ôm ma ni... là để định tâm mà thôi.
Mến.
TB: Hậu quả (của kiếp sau) của những người tu tập như vậy là sẽ tái sinh lại như những người có bịnh *Thiểu Năng Trí Tuệ*, những người mà mình thấy có những nét giống nhau và khờ khờ nhưng rất hung tợn. Hậu quả hiện tiền cho những người tập thường xuyên. Vì tu theo kiểu bị nhập như vậy mà khi về già thường thì mấy sư phụ đó bị xuất tinh dầm dề và bị bịnh điên. Cứ theo dõi họ thì biết. Do những triệu chứng trên mà các pháp môn đó đã ma giáo khoả lấp sơ hở của mình bằng những điều lệ có ý như sau: Nếu phạm giới, nếu là con trai thì bị điên và gái thì bị mù. Để khi sư phụ có bị điên hay bị bịnh nặng thì họ có cớ để khoả lấp.
Lời bàn về niệm:
Họ niệm mà không tác ý thì niệm gì lại không được, nhưng kể từ khi họ bị nhập do lễ thu nhận đệ tử hay thọ giáo đầu tiên thì trong tất cả những câu niệm đó thì tới khi họ tập thì họ lại tác ý Nhập. Và do thần kinh đã bị bào mòn do những nghiệp sát trong những tiền kiếp thì Điện Thần Nhân mới nhập được. Còn hệ thần kinh bình thường thì họ không làm gì được.
Xuất xứ của Om mani padme Hùm: Nếu trí nhớ không quá tệ thì câu Thần chú: Om mani padme Hùm trong cuốn Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh do Thầy Viên Đức dịch có nói đầu đủ.
Huynh hỏi: Tại sao họ dùng câu ấy? Tại vì phẩm Phổ môn mà họ lạm dụng câu chú đó để dụ nai. Xin nhắc lại là do họ đọc mà không tác ý thì tuy đọc Thần Chú của Quan Thế Âm nhưng họ không có tác dụng gì cả. Đối với họ câu gì đó: “Búp tha, búp sa, Pháp sư, Hoả sư” thì lại có tác dụng còn những câu khác đều chỉ là *đọc vẹt* vậy thôi.
MTT: Có phải đây là pháp môn của Mật Tông bị người đời lạm dụng hay không?
HL: Pháp Môn này không phải là Mật Tông mà là Pháp Môn của mấy Ông Thần nên gọi là: Thần Quyền là đúng nhất.
Mến.
Hoà Bình (3) và Chiến Tranh (7)
Thu, 22 Jan 1998 03:10:44
KKT: Thân gửi Huynh 2L,
Trong bài viết của Huynh dưới đây, Huynh có nói nhiều đến “tác ý”. Đệ xin hỏi Huynh vài câu hỏi liên quan đến “tác ý” và “thần chú”:
1- Huynh nói niệm chú phải có tác ý thì mới có tác dụng, còn nếu niệm không có tác ý thì không có gì xảy ra
2- Trong đời sống hàng ngày có tác ý không chưa đủ mà phải có... hiện hành nữa. Thí dụ muốn có xế hộp láng để chở đào đi chơi thì phải cầy 2, 3 jobs (bởi vậy mà than không có giờ tu hành, học đạo!) mới có tiền mua (nghĩa là phải có đầy đủ NHÂN DUYÊN thì việc mới thành tựu) Vậy nếu bây giờ đệ tác ý muốn có xế hộp và... niệm chú thì có thể nào tự nhiên có tiền mua xế hộp chăng? (Huynh nào muốn có đào đẹp mà lại... làm biếng chắc đang vểnh tai chăm chú nghe!)
HL: Huynh có cái nhìn của đệ hồi xưa (đệ rất nghèo đệ ở trong một căn gác của thằng bạn căn nhà nhỏ xíu ở Đà Lạt), niệm chú để làm giàu thì khỏe re con bò kéo xe. Trong kinh Chuẩn Đề Đà Ra Ni có viết đàng hoàng: Đọc chú và ấn cái ấn trên mặt đất thì vàng liền trồi lên. Đệ chơi liền, vàng trồi lên liền và có một số người tới hỏi đệ:
“Nè chú, chú muốn giàu hay chú muốn hết khổ”
“Hết khổ” Mấy ông đó cười nghiêng, cười ngửa và trong đó có một ông lùn hơn tiến tới:
“Như vậy, chú cho phép tui lấy lại chớ!”
Thế là ổng lấy lại. Và bây giờ thì đệ lại có nhiều pháp tu hành còn quý hơn bất cứ cái gì nữa.
KKT: 3- Nếu bây giờ đệ niệm “COCÀ COLA” và tác ý thì câu trên có thể trở thành thần chú không? Hay là thần chú là những mật ngữ riêng của chư Phật và chư Bồ Tát. Nếu vậy tại sao những vị thầy pháp cũng có luyện chú vậy, và dường như những câu này cũng chỉ là những câu vớ vẩn?
HL: 1. Thần chú là những cái tên của những ông thần (mà thầy Pháp, Phù Thủy hay dùng đến) như câu trên “Búp tha, búp sa, Pháp sư, Hoả sư” là tên của một A tu La, A tu la chui vào là uýnh thôi, đúng nghề của chàng mà.
2. Thần chú là âm thanh của những chày Kim Cang khi đánh nhau với những pháp Thân và khi chạm nhau mà tạo thành: Hùm; Vảm; Phát; Bhrum và Subham là những âm thanh lần lược của 2 chày, 3 chày, 4 chày và 5 chày Kim cang đụng lại mà tạo ra: Tác dụng của nó là: Chuyển Tâm.
4. Thần chú là âm thanh kết hợp của những luân xa trên con người khi đang an ở một trạng thái tâm thức nào đó mà phát ra: Om mani Padme Hùm là thần chú của QTA Bồ Tát.
Giống như xe tăng khi nổ máy nó kêu ầm ầm, thì ở đây khi đạt được trạng thái QTA Bồ Tát thì hành giả cũng nghe được câu âm thanh đó phát ra từ thân hình mình với tầng số thấp và rền như sấm sét vậy. Vì vậy mà thật là không ngoa khi nói là Thần chú là những mật ngữ riêng của chư Phật và Bồ Tát. Tán láo là như vậy, còn tập thì ngầu lắm lận, sơ hở là xì khói liền.
Mến.
Hai Lúa.
TÚC MẠNG THÔNG
Fri, 23 Jan 1998 04:52:58
KKT: Vậy thì vàng đó cũng giống như một hình thức credit mà thôi, xài hết mai mốt cũng phải trả lại, chứ đâu có cho luôn!
HL: Sau này đi gặp họ lại và hỏi cho ra lẽ thì họ nói rằng: “Chú xài cũng được nhưng ngay sau đó là tự động không tiến tu được nữa, Vì đã giảm phước báu!”
KKT: Huynh còn có cái pháp gì mà... chơi hoài không biết mệt đó nữa, như Huynh KL thuật lại! (hô hô hô)
HL: Đệ tập hoài thôi, đệ ít ngủ lắm và cứ nhập định thì miệt mài có khi cả tuần.
KKT: Nếu như vậy thì tu Mật Tông phải có “căn cơ” và “nhân duyên” nữa! Và Thần Thông cũng như vô số phương tiện thiện xảo của Bồ Tát phải dùng để độ sanh!
HL: Định nghĩa: Tu sĩ Mật Tông là một người sống bình phàm, mang lý tưởng Bồ Tát, trên tiếp thông với Chư Phật, dưới phổ độ chúng sanh, khi bình thường:
Như Người thường. Nhưng khi có việc thì siêu phàm vượt thế. Cùng một lúc Tu sĩ có thể sử dụng những phương tiện thiện xảo như: Ấn, Chú, Thiền, Quán và Đàn Pháp.
KKT: Lại hỏi Huynh một câu hỏi mới: Huynh có Túc Mạng Thông không? (thấy được những kiếp trước)
HL: Dạ có! Thấy kiếp thì tới Tam Thiền là có thể thấy một vài hình ảnh về tiền kiếp (câm, không có tiếng): Cô Thảo ở gần nhà đệ (Utah) có rơi vào kinh nghiệm đó. Lên tới Tứ Thiền có thể thấy một vài đoạn (nhưng dài hơn và chi tiết hơn, nhưng vẫn câm...) rồi khi tu đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng và dùng sức tu đó mà trụ ở Tứ Thiền (để vừa Thấy và Nghe) thì có thể coi được cùng lắm là 40 kiếp là hết. Đó là cao cấp của Tà Đạo. Không thể nào vượt hơn con số này được.
Vào Diệt Thọ Tưởng Định xong thì mới có thể coi từ kiếp thứ 41 trở đi.
Coi kiếp là một bài tập khó vì khi đang coi, do tình tiết của câu chuyện mà vi tế tâm chen vào và làm sai đi. Đệ có cuốn băng do bé Trang (khi thực hiện cô chỉ có 16 tuổi vào năm 1991) ở Đà Lạt kể về cái nhóm 16 người đầu tiên của tụi đệ cùng với những nhân duyên gặp nhau cách đây 400 triệu (đáng lý là phải thêm một chữ Tỷ năm thì mới đúng) năm, nghe cũng lãng nhách và lạt như nước ốc. Và cuốn băng đó có sai số là 2%. Khi nghe đệ trình bày lại thì bé Trang lại muốn sửa nhưng đệ cản và để dành cuốn băng đó làm bài tập luôn cho những anh em sau này nghiên cứu.
Tất nhiên, Số Kiếp là do Nghiệp mình tạo nên, và do vậy mà đáng lý ra đệ đã ngoẻo lâu rồi (1993), nhưng nay vẫn sống nhăn răng cũng nhờ những công phu tu tập của đệ trong kiếp này. Và cũng nhờ vào những phương tiện thiện xảo của Tổ, Thầy, Huynh Đệ đi trước để lại. Tóm lại chẳng có cái gì là trúng hết vì sau khi đã tu được kha khá rồi thì mình có thể đổi được để sống lâu lâu một chút cho vui nhà, vui cửa, không sao hết. Vì Thật ra nó là Mộng huyễn mà. Mà hễ đã là Mộng, là huyễn thì:
Nếu biết cách, mình có thể thay đổi nó được.
Mến.
Hoà: Trong 1 message trước, tôi có đề nghị anh tu lại quán “vô ngã” để bỏ cái “tật” thỉnh thoảng trốn “bà xã” thả hồn đi lang bang. Vậy mà anh không giận! Vì thế tôi bàn ké thêm trong câu chuyện trên giữa anh và anh Luân. Tôi nghĩ có thể anh đã đi xa nhưng vẫn còn lẩn quẩn ở cái Mạt na thức đó (mình đang nói chuyện Duy Thức mà). Như vậy cùng lắm là anh vào được cái Phi Tưởng Phi Phi tưởng mà thôi. Chưa tới cái Diệt tận định đâu, vì tới đó là anh lọt vào Tàng thức và “chứng ngộ” như TD rồi.
Anh thử check lại. Hình như TD biết gì đó về cái Tâm, và anh Luân dựa vào sách vở có thể hiểu nhưng chưa thực nghiệm để biết (lại Joke!). Vấn đề quan trọng là biết rõ cái đích. Nếu không thì làm sao chắc ai đi đúng đường, ai bị lạc, ai đi thẳng lối, ai đi vòng vòng, ai đã tới gần, ai hãy còn xa. Và tất cả chỉ là (mượn cách nói cũ) không đàm, hý luận, dù riêng tôi, tôi thích nghe hý luận lắm vì có mất mát gì đâu, còn được cái vui.
Thân,
HL: Đặc Biệt:
Thiền Sư không bao giờ phải đấm lại lần thứ hai trên cùng một đối tượng. Ví như người bắn sẻ: Một viên đạn là một mạng người. Trong thiền tông có ghi lại những cú đấm mà hiệu quả chỉ hiện ra khi đấm/đá đến lần thứ hai làm đệ rất là nghi ngờ. Huynh thử nghĩ đối với Người tự xưng là đã Ngộ Đạo mà còn... xí lộn thì không đúng tý ty ông cụ nào cả trừ trường hợp họ phương tiện giả ngu thì.... đành chịu vậy. Đệ có kể kinh nghiệm đấm đá thiệt (tức là chuyện đấm và bẻ lọi tay tên chúa trùm móc túi ở rạp Quốc Tế TP HCM) của đệ trên diễn đàn này rồi.
Kiểm tra sự chứng ngộ chỉ xảy ra giữa người chỉ đường và người đi theo hướng đã được chỉ thì mới ép phê còn kiểm tra những người tu theo hướng khác thì chỉ để học hỏi thêm mà thôi chớ không có ép phê cho đối tượng được kiểm tra.
Nhận xét:
Một người nếu như Huynh nói là chỉ tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thì không có khái niệm kiểm tra ai cả vì rất dễ hiểu là họ không có tự kiểm tra họ về phương diện Bản Ngã (ý đệ nhấn mạnh đến: Câu chuyện ông Thầy dụ Phật ở lại để chỉ thiên hạ đó mà). Đệ mà đã âm thầm nhấn mạnh đến ai thì tự họ phải thú nhận là họ đã bị như vậy, bị như kia trong những bài giảng. Các Bạn và các Huynh còn nhớ đến vụ nổ lựu đạn trong đầu, chớp loé sáng, bị quên khi tu tập mà đệ đã... vô tình hí hí... *Hư Cấu trong khi bàn về hiện tượng Cận Định chớ.
Hòa: Tất nhiên những câu chuyện đó không ép phê cho người bị kiểm tra mà chỉ có tính cách để học hỏi mà thôi. Vì họ đi theo cách khác, đó là vấn đề quan trọng là biết rõ cái đích. Nếu không thì làm sao chắc ai đi đúng đường, ai bị lạc, ai đi thẳng lối, ai đi vòng vòng, ai đã tới gần, ai hãy còn xa. Và tất cả chỉ là (mượn cách nói cũ) không đàm, hý luận, dù riêng tôi, tôi thích nghe hý luận lắm vì có mất mát gì đâu, còn được cái vui.
Thân,
HL: Hổng có lo vì thế nào họ cũng xong mà! Lo chi cho mệt. Có lo chăng là lo những người có hoài bão là *Phải Làm Cho Xong Trong Kiếp Này* còn những vị tu tài tử hay tanh hù thì chẳng việc gì phải lo. Và nói trắng ra, họ chạy đâu cho thoát bi giờ.
Mến.
Hai Lúa.
TB: Cám ơn Huynh đã thể hiện cái trực tính của mình trong câu chuyện trên.
KKT: 1- Huynh có Tha Tâm Thông không? (Đọc được tư tưởng của người khác).
HL: “Cũng có, và đệ đã trình bày trong cách thức giải toả công phu cho K. Shiina đó!”
KKT: 2- Tu Thần Thông tức là có quyền năng (power), nên rất nguy hiểm vì dễ rơi vào Ngã Mạn! Vậy phải làm sao để tránh?
Thân,
HL: Tu thần thông mà không có cách thì y như mới... đi học võ vậy:
Mới biết vài miếng thì đứng trước ngõ múa qua múa lại liền, đó là thể hiện những cái tính khỉ. Tập Thần Thông mà vào Mật Tông thì được huấn luyện có quy mô và rất là hay mà không bao giờ có thì giờ để rơi vào cái Ngã Mạn cả. Mạn Đà La: Om, mani padme Hùm là một bài tập rất hay. Các Bạn và Các Huynh nào muốn thì đệ sẽ kể riêng cho biết chơi cho vui. Riêng Huynh Luân thì đệ kể cho nghe rồi đó vì Huynh hỏi.
....Thế còn “Lục Tự Di Đà”? Có phải là thần chú không mà các phật tử hay ai ai đi chùa cũng đều biết đến? Tác dụng of nó ra sao?
HL: Chào Huynh.
Nó thuộc về Tình Độ và Mật Tông: Tịnh Độ thì trụ vào niềm tin mà đọc, Mật Tông thì trụ vào Tác ý mà đọc (lại khổ!)
Khi các anh nói về “tác ý” khi niệm chú là nghĩa sao? Khi niệm mà mình không rõ nghĩa of chữ đó thì cũng như đọc để GIỮ LỜi mà KHÔNG GIỮ Ý (con vẹt!). Còn nói về frequency of thần chú thì miệng nói không đúng âm thì receiver có tốt cách mấy cũng chỉ bắt được “NOISE” thôi!
Tác ý là những cung cách để fine tuning những cái không đúng, của mình, khi đọc chú, niệm. Nhưng Tác ý ra làm sao?:
1. Về cao độ của câu chú/niệm: Người niệm nên niệm bằng ý (Kim Cang Trì?) và nâng dần cao độ lên từng octave một hay từng tông một. Mới đầu là tông Do thì sau đó qua Ré, tiếp đó là Mi rồi Fa, rồi Sol, rồi... (biết rồi khổ lắm nói mãi!)
2. Dùng những cái hình Chữ Cái được máng, treo, cho không trong các chùa về mà tưởng tượng. Ví dụ nếu là Án ma ni bát nạp minh hồng thì dùng chữ cái hình Chữ Cái QTA mà tưởng tượng.
Dụng công: Tâm vẫn lỳ lợm hay ngây thơ, đọc: Án Ma Ni Bát Nạp Minh Hồng! vừa đọc và vừa tưởng tượng hình QTA.
Chứng: Đang vẽ y như những hình mình thấy:
Mở ngoặc:
Nhân câu chuyện này mà đệ lại nhớ đến một anh chàng Công An cũng muốn tập, ảnh hỏi như sau: “Cái ông mà anh lói (nói) đó nà (là) cái Bà bận áo choàng trắng và cầm bình dịu (rượu) đấy à!”
“Dạ.”
Đóng ngoặc:
Bỗng nhiên cái hình đó morph thành dạng 3D và thò tay ra sờ cái đầu mình (mà mình có rõ ràng cái cảm giác đụng chạm đàng hoàng) rồi phát ra câu chú: Om, Mani Padme Hùm với dọng bass và rền như sấm sét.
Còn nữa: Giọng chú được tụng với một dạng surround sound: Câu chú thì đi giữa hai bè của âm vang của một tiếng đại hồng chung!
Với cách này thì làm sao mà tui chỉ anh đọc cho đúng được nên pháp môn này gọi là Mật là vì vậy! Chớ không phải là bí mật, là top secret đâu.
Sau đó là mình cứ rập khuông mà đọc theo, khi âm hưởng đã nhuần nhuyễn thì mình không nghe cái hình bây giờ là Pháp Thân QTA đọc nữa.
Từ đó mà mình sẽ học pháp với Pháp Thân: Mình hỏi, họ đáp, có khi dẫn mình đi để chỉ hay chiếu phim cho coi những kinh nghiệm mà Pháp Thân đã ghi nhận được. Có khi lại biến mất và để lại một cảnh vật để mình thực tập giải quyết. Giải quyết xong, Pháp Thân lại tiếp tục hiện ra khen tặng và chỉ bảo tiếp. Không có một ông Thầy, cuốn Kinh, buổi thuyết pháp nào mà sánh được với cái tính: Mộng huyễn như Thật, mềm dẻo và hiện thực bằng cung cách chỉ dẫn của Pháp Thân.
Mến.
Hai Lúa.