
100. Ba loại kiện tướng
Tập Tin V
Bài 100. Ba loại kiện tướng
Ba loại kiện tướng
Hoà:
Kiểu đất long xà chọn được nơi,
Tình quê lai láng suốt ngày vui,
Có khi xông thẳng lên đầu núi,
Một tiếng kêu vang, lạnh khắp trời.
KTH dịch
HL: Long là rồng tượng trưng cho Thần; xà là rắn tượng trưng cho Khí. Luyện tinh hoá Khí, Khí hoá Thần là một căn bản hay nền tảng của mọi pháp môn. Tuy rằng tìm đỏ con mắt trong kinh Phật thì Ngài không có bàn đến một tý ty ông cụ nào.
Nhưng khi thực hành Thiền định, Mật tông, Tịnh Độ mà ăn chơi trác táng thì... biết liền hí hí. Rồi câu đầu xong rồi đó. Huynh nào tiếp câu hai đi.
Mến.
Một chút tâm sự, thói thường cái gì mất mới quý, cái gì chưa có cũng quý.
Như vậy, câu thứ hai là:
Tình quê suốt ngày vui không chán.
Lời bàn: Cái Quê này chắc chắn, không phải là quê hương đất tổ mà là cái mục đích của mình khi tu tập.
- Đối với Tịnh Độ thì đó là mối tình hoài hương về Tây Phương Cực Lạc.
- Đối với Thiền Tông lại là sự quay về với cái thâm trầm của cái Chơn Tâm
- Và đối với Mật là tập cho lẹ để được nhiều phương tiện để rồi: Nơi Nào Mà Mình Có Thể Giúp Bạn Bè, nơi đó là quê hương. Cái mối tình này phải luôn sống ở trong mình!
Đối với ba môn Tịnh Thiền và Mật thì mình sẽ tiếc cái thời gian mà mình đành phải bỏ phí để làm việc sinh sống, và vui sướng khi có thời giờ để *Hạ Thủ Công Phu. Mỗi một ngày, khi mặt trời lặn, mình cảm thấy tiếc là không thể tập nhiều hơn nữa. Mình nhìn thời gian trôi qua một cách mau chóng và Vô Tình và trong lúc đó mình lại thấy Bạn Bè cũng thật là *Vô Tình* với Đạo Giải Thoát*. Nhiều lúc chép miệng than rằng:
“Ngũ Trược, Ác Thế đến như vậy là cùng!”
Và có khi, lại tự an ủi:
“May mà chỉ có ba cái Tham Sân Si thôi! Chớ nếu mà có thêm một cái gì nữa (để được bốn cái) thì không biết bao giờ mới tu xong!”
Hí Hí.
Còn... câu thứ ba thì sao?
Mến.
Vậy câu thứ ba là:
Có lúc lên thẳng đỉnh núi trơ vơ
Trong Phật Giáo có ba loại kiện tướng có thể mò lên cái đỉnh núi này.
- Thiền định kiện tướng:
Khi lên thẳng (?) đỉnh núi này họ thấy cái gì? Họ thấy cái bí lối của vấn đề, cái dồn nén tột cùng của vấn đề. Họ như muốn điên như muốn khùng vì vấn đề dường như có thể giải quyết được, nhưng lại kỳ thật họ không biết diễn tả ra làm sao. Trên đỉnh núi này đối với họ là sa mạc. Khái niệm *Sa Mạc* này sẽ ở với họ cho dù hàng ngày họ cứ đối diện với tất cả những cái “diễm lệ” của đời sống bình phàm. Khi lên đỉnh núi này, kiện tướng bị xé đôi thân xác và tư tưởng. Họ sẽ chọn hoặc là quay về với đời sống bình phàm hoặc là tạm trú nơi đỉnh núi. Nếu họ chọn là quay về với đời sống bình phàm thì coi như cái lực công phu này sẽ là cái vốn sau này cho họ tu tiếp. Còn nếu họ chỉ muốn Tạm Trú thôi thì: Lúc này họ cũng có vẻ là sống bình thường nhưng càng ngày họ càng bị Cái Vấn Đề Chưa Xong Đó nó lôi, nó kéo.
- Tịnh Độ Kiện Tướng:
Đối với kiện tướng này thì hình ảnh A Di Đà Phật đã hiện ra rõ như ban ngày, ngay đằng trước mặt mình rồi. Nhưng quái một điều là: Hình ảnh này chỉ có cái đẹp và sáng ngời mà thôi còn sử dụng thì kiện tướng lại có cảm giác là Mình Còn Thiếu Một Cái Gì Đó. Công phu càng ngày càng mạnh mẽ và tiến triển rõ rệt nhưng cái cảm giác: Mình Còn Thiếu Một Cái Gì Đó cứ còn đó hoài!
- Mật Tông Kiện Tướng:
Khi lên tới đỉnh núi thì: Tay bên trái của họ có thể rờ được Mặt Trời (với cảm giác trơn tuột và hơi lồi lõm) còn tay bên phải, họ có thể rờ Mặt Trăng (với cảm giác nham nhám và lồi lõm). Khi họ nghĩ tới ai đó hay một vật thể nào đó, thì họ được coi nguyên cả cuốn phim về đời sống của người đó hay sự thành lập của vật thể đó. Cảm giác Không Biết Dùng Những Cái Đó Để Làm Gì lại gậm nhấm họ. Trên đường tu tập, họ lần lượt gặp mặt những Pháp Thân như sau: Kim Cang Vương (Một con quỷ khổng lồ, không có lưỡi) Quan Thế Âm (Một Pháp Thân của một Bồ Tát hiền hậu, nghiêm trang và vui vẻ với nghìn tay, nghìn mắt.
Phật A Di Đà
Và Đức Tỳ Lô Giá Na
Ghi chú: Mỗi Pháp Thân đều cầm Chày Kim Cang (trước đó thì các pháp thân còn cầm đủ thứ vũ khí, nhưng sau này thì chỉ còn cầm độc nhất một loại vũ khí mà thôi: Chày Kim Cang). Với nguyên dàn giá coi bộ ngầu đời như vậy: Nhưng họ lại không biết để dùng vào việc gì! Cái cảm giác này là cái khó chịu nhất đối với họ, khi họ lên được đỉnh núi.
Còn... câu thứ tư thì sao?
KKT: Hí hí hí... Hai câu cuối:
Có lúc lên thẳng đỉnh núi trơ vơ
Kêu một tiếng dài, lạnh cả bầu trời.
lại làm đệ nhớ đến... Kiều Phong, A Tỷ trong “Lục Mạch Thần Kiếm” (ha ha ha). Đoạn cuối của cuộc đời KP thật là thê lương, hoàn cảnh oái oăm khiến cho người anh hùng (hay bậc Đại Trượng Phu) rơi vào cảnh “trời không dung mà người cũng không thương”, không còn lối thoát nào khác khiến KP trên đỉnh núi trơ vơ chót vót, phải hú lên một hồi dài như tiếng chó sói tru cho vơi bớt nỗi niềm bi đát, rồi sau đó... nhảy thẳng xuống vực sâu! Tuy vậy cũng có một nàng.... A Tỷ gieo mình nhảy theo, nên... chưa hết chuyện, vì còn phải luân hồi gặp nhau nữa chớ...!! (ha ha ha) Thật đúng là:
Trôi nổi sông YÊU giờ nào nghỉ
Nấu nung nhà cháy biết bao thôi? (ha ha ha)
Trở lại chuyện “serious” hơn (tán láo tí tí đó mà), đệ nghĩ rằng cái chết của KP có thể ví như cái chết của cái bản ngã (hay phàm tâm). Cái nỗi thê lương chính là cái nỗi sợ hãi khôn cùng của bản ngã của ta khi nó biết sắp đến giờ khai tử của nó. Cái bản ngã của ta nó yêu sự sống vô cùng (“khát” sống mà..! Phật đã nói rõ trong Tập Đế) nên nó phải bám víu bằng mọi giá vào cái sự trường tồn của nó. Nó có biết đâu rằng đàng sau cái chết của nó, lại là cả “một vùng như thể cây quỳnh cành giao” (vườn địa đàng đó mà, ha ha ha). Cái nỗi băn khoăn, thắc mắc, bất như ý của người hành giả mà Huynh diễn tả trong câu thứ ba cũng giống cảnh cùng đường, mạt lộ của một người đi đến chỗ “sơn cùng, thủy tận”, tưởng không còn lối nào thoát nữa. Có biết đâu rằng đằng sau rặng liễu bỗng lại hiện ra một xóm làng:
Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,
Liễu ấm hoa minh hựu nhất thôn.
(Đến chỗ cùng tận của núi sông, tưởng chừng như không còn lối, thì sau rặng liễu bỗng hiện ra một xóm làng...!)
Cuối tuần, hy vọng rằng sau dăm ba cái stress mà chúng ta ai cũng đều gặp phải trong tuần, các bạn bỗng dưng nhận ra được cái... thôn trang của bạn (Bản Lai Diện Mục đó mà..! ha ha ha)
HL: Đệ được Huynh KKT và Huynh Hoà giao banh một cách ngon lành:
Huynh KKT: Cái bản ngã và ý chí muốn sống!
Huynh Hoà trong bài thử dịch của Huynh:
Chọn được đất linh thế rắn rồng,
Tình quê suốt buổi thoả lòng mong,
Có khi lên thẳng đầu non quạnh,
Một tiếng kêu dài lạnh cõi không.
Vậy là câu thứ tư là:
Một tiếng kêu dài lạnh cõi không.
Lời bàn: Tiếng kêu dài này này phải là A!!! rồi họ nghiến răng lại và hít không khí vào tạo thành tiếng xi...i...i. rồi kế đó là họ ngậm miệng lại thở ra tạo thành tiếng Hùm! (tất cả chuỗi âm thanh tự nhiên đó đều có nghĩa là: Đây rồi!) hí hí. Vừa kêu lên được như vậy, thì cũng là vừa lúc họ nguội lạnh để ôn cố và sau đó là truy tân hí hí.
Như vậy câu thứ tư là một chữ A! mà thôi!
Thế nhưng, đệ có bàn về ba loại Kiện Tướng khi họ leo lên đỉnh núi, và khi họ tạm trú nơi này và loay hoay với những cách tu tập đặc biệt của họ thì họ sẽ gặp cái gì mà tất cả đều cùng la một tiếng A! như vậy?
Thiền Định Kiện Tướng:
Có những lúc để giải quyết cái bí lối của vấn đề họ lại bị nhức đầu và ngay lập tức: Họ dừng lại nơi đây (đó là phản ứng tự nhiên của họ). Nhưng sau khi dừng lại nhiều lần ở mức độ nhức đầu trên, và lần này họ lại bị nhức đầu hơi nặng nên họ phải khởi niệm: Xả!
Do khởi niệm xả Một Cách Vô Tội Vạ như vậy nên họ lọt vào Phi Phi Tưởng (câu này là của đệ và anh Sơn ghi thêm vào). Nếu ngay lúc đó, họ nhắm mắt thì họ sẽ thấy một không gian bao la (3D) màu đen ngay đằng trước mặt. Nếu họ mở mắt, thì họ cảm nhận một cái lực toả ra từ thân họ: Cái lực loan toả ra nầy, y như là cái lực nổ của một khối thuốc nổ mà thân họ chính là khối thuốc đó. Kiện tướng cứ lập đi, lập lại cách này nhiều lần, trong nhiều năm.
Ghi Chú:
Tất nhiên, khi so sánh với những lần bị nhức đầu ở những lần đầu tiên, thì lần sau cùng này nó có những cái khác của nó! Sau đó, do ở lâu thành lão làng, Kiện Tướng lại khởi niệm xả một cách hay hơn: Tất cả đều: Khổ, Vô Thường, Vô Ngã!
Khi khởi niệm như vậy: Kiện Tướng đã không Xả Một Cách Vô Tội Vạ như trên nữa mà lân này Kiện Tướng đã xả Một Cách Trí Tuệ (nhờ khái niệm của ba pháp ấn!). Lần này, hơi thở và nhịp tim dừng lại để đánh dấu thời điểm họ tới nơi. Không gian, thời gian, tư tưởng đều dừng lại trong sự tịch chiếu sáng ngời của Chơn Tâm. Khái niệm về ý chí muốn sống hay cái Bản Ngã (hello Huynh KKT) đã bị cú *Xả Đầy Trí Tuệ này bứng gốc và quất sụm!
Một tiếng kêu dài lạnh cõi không.
Đệ ghi lại kinh nghiệm tâm linh của anh Nhâm Đà Lạt, một cư sĩ chơi tới bến kiểu Khán Thoại Đầu. Anh tới nơi, vợ anh (chị Lê) vẽ tặng anh hình Sơ Tổ bằng bút chì. Chùa của anh bấy giờ lại có cả Thầy Chùa đến yết kiến.
Mến.
Hai Lúa.
TB: Nhức đầu là một hiện tượng chung của những vị tu Thiền, Ngay cả chữ nhức đầu cũng không thể chỉ rõ cho những anh chị em mới vào nghề!
Cũng y như khi đệ đi với Đồng Bào Thượng Du vào buôn làng ở trong rừng. Họ cho đệ biết là: Khoảng cách 2 nồi cơm. Đệ liền suy diễn là một ngày đi bộ (vì theo lệ thường thì: Sáng ăn một nồi và chiều một nồi cơm nữa là tới nơi). Nhưng khi đi với họ, thì phải đi ròng rã trong vòng 4 ngày và 2 đêm thì mới tới nơi (vì khi ăn xong một nồi cơm, là họ có thể đi bộ 2 ngày một đêm thì mới đói lại). Do vậy, trở lại chuyện nhức đầu: Sau khi qua cái giai đoạn “nhức đầu như muốn ói” thì sẽ đến *Cú Nhức Đầu Tưởng Như Sắp Chết!* Tới đây, nếu mình chỉ cần suy nghĩ về nó (thoại đầu hay công án) thêm một niệm nữa thôi thì mình có cảm giác là mình sẽ chết liền vì nổ tung đầu. Thì lúc đó mình xả với ba pháp ấn là xong! Sau khi thưởng thức kinh nghiệm của Thiền Định Kiện Tướng nay đệ mời quý Huynh và các Bạn thưởng thức tuyệt chiêu của:
Tịnh Độ Kiện Tướng
Hình ảnh A Di Đà Phật xuất hiện một cách quen thuộc hằng ngày trong những buổi công phu miên mật. Trong những lần cuối cùng này cách đây vài ngày, kiện tướng có cảm nhận rằng mình bị lạnh trong khi công phu, có những lúc lạnh kinh hồn luôn! Thế nhưng hình ảnh A Di Đà Phật vẫn câm lặng như vậy, và càng ngày càng đẹp và sáng, đồng thời *Linh Động* hẳn ra! và KT lại nhận thấy rằng: Hễ mình càng niệm mạnh mẽ vào, ngay khi mình càng lạnh, thì hình ảnh lại càng đẹp và càng sinh động. Từ những nhận xét trên, KT hiểu rằng, khi công phu mình không có làm chuyện gì sai cả. Nghĩ ra được như vậy: KT làm tới bến luôn!
Lần này, KT niệm cho tới luôn coi ra sao! Cơn lạnh ập tới kinh hồn, KT chỉ thoáng cảm giác là mình sẽ chết nếu mà cứ bị lạnh như vậy. Ở đây, thói thường, là dừng công phu (Trình độ: Thượng Phẩm Thượng Sanh). Nhưng KT không thèm dừng và niệm tới luôn bác tài. KT như bị thôi miên do hình ảnh A Di Đà Phật, cơn lạnh buốt giá đồng thời cố lôi KT về hiện thực, cùng một lúc: Khái niệm sắp chết ập tới! Nhưng KT gôm hết tàn lực để chú tâm đến niệm lực và Bỗng nhiên Hình Ảnh A Di Đà Phật phát thẳng ra một tư tưởng xuyên qua đầu của KT. Với niềm tin dũng mãnh vào lục tự Di Đà, ông nay là Nhất Sanh Bổ Xứ, ông nên phát Nguyện.
KT phát nguyện theo kiểu riêng tư của mình hay theo bài bản cũng được... Sau khi phát nguyện xong, KT thấy mình dừng phía sau A Di Đà Phật và trước mặt mình là những cái tháp! Vào một trong những cái tháp đó thì KT lại thấy mình đối trước Tam Thiên đại thiên thế giới, một cảnh hùng vĩ do thói quen Vô Minh cộng hưởng tạo thành... Không một chút xíu nao núng, KT băng mình vào khoảng không gian đó với Lục Tự Di Đà.
KT tĩnh dần lại và nhận thấy hơi thở và nhịp tim đều dừng lại khi mình quên cái lạnh mà theo niềm tin dũng mãnh của mình. KT ít nói và chỉ lo niệm Phật và độ người và vật bằng câu niệm của mình...
Một tiếng kêu dài lạnh cõi không.
Đệ ghi lại kinh nghiệm của anh Phan Thái (Thượng Phẩm Thượng Sanh) và cô Hồng (Nhất Sanh Bổ Xứ). Cả hai đều ở Đà Lạt cùng trong một xóm.
Mến.
Hai Lúa.
TB: Đã là con của A Di Đà Phật thì không ai là nghèo cả: Cô và anh Thái sống trong cảnh sung túc.