107. Trạng thái hay Cảnh giới

107. Trạng thái hay Cảnh giới

Tập Tin / Tập Tin V    Xem 517     17 năm trước

Tập Tin V

Bài 107. Trạng thái hay Cảnh giới

Trạng thái hay Cảnh giới

Sat, 5 Sep 1998 16:16:32

Thân gởi anh Hai Lúa,

Lúc nào có chuyện gì khó là tôi lại cứ nghĩ tới anh. Số là sau khi đọc hai bài viết của anh Hải và thầy Huyền Vi (rất hay) tôi có vài ý nghĩ vẩn vơ sau đây: Niết Bàn, Tịnh Độ là một Trạng Thái của tâm thức hay là một Cảnh Giới mà cái tâm sẽ an nghỉ ở cuối nẻo luân hồi.

HL: Chào Huynh và các Bạn.

Máy rảnh! Đệ viết vội vài câu gọi là *cho vui câu chuyện*! Phải viết lẹ để cho 2 tu sĩ học bài. Tùy theo cá tính và duyên nghiệp mà tụi mình sẽ mò về cái chỗ mà khi bàn về nó, tụi mình thường rơi vào tính cách phiến diện: Niết Bàn.

Về con đường đi thì có hai cách thường dùng:

Thiền:

Đối với những ai không thích chuyện vớ vẩn như huyền bí, bùa chú... mà chỉ chú trọng đến những chuyện xét ra có tính logic đều có khuynh hướng tìm về con đường Thiền Định. Con đường này không có tính cách cao hay thấp hay rõ hơn là không dành riêng cho ai cả!

Đối với Chân Lý, Anh chưa tới nơi thì có nghĩa là, theo Chánh Pháp: Anh chưa là gì cả!

Tịnh:

Đối với những ai không thích lý luận rắc rối, qua những câu chuyện về Tâm Sở nầy, Tâm Vương kia, mà chỉ chú trọng đến tính cách nhỏ bé của con người trước những bí hiểm của Thế giới... Họ chỉ sống cho niềm tin! Vì họ tin rằng sẽ có người cứu họ nếu họ cứ gọi tên người mà họ tin rằng người đó rất giỏi... Vậy, Họ lại có khuynh hướng đi về Tịnh Độ. Con đường nầy lại chẳng có hơn gì con đường trước, có nghĩa là nó chẳng cao hơn hay thấp hơn một tý ty ông cụ nào. Nó chỉ gọi là Có Giá Trị cho những ai đã tới đích bằng con đường Niềm Tin mà thôi. Có nghĩa là nếu Anh chưa tới nơi (Theo cách này thì chưa vào được phần *Hạ Phẩm Hạ Sanh* thì theo Chánh Pháp: Anh chưa là gì cả!

Con đường nào cũng lắm chông gai và cần rất nhiều đến sự kiên trì tập dượt kết hợp với một kỷ luật cao và một số kỹ thuật tốt. Nay lại bàn về Niết Bàn: Người nào đã tới nơi rồi và nếu có dịp, và họ chịu nói thì họ đều nói đến hai tính chất đặc biệt của chỗ đó, hai tính chất nầy cùng một lúc hiện hữu nơi họ:

1. Tui không ở đâu cả!

2. Tui ở tất cả mọi nơi!

Hay ngầu hơn:

1. Tịch

2. Chiếu.

Mến.

Hai Lúa.

TB: Nếu gọi Thiền là con đường của Trí, Tịnh là Bi thì Mật tất nhiên phải là con đường dành riêng cho những người có tính Dũng trong đó. Theo kinh nghiệm của đệ, không có yếu tố Dũng thì không tập Mật được.

Hoa H Nguyen:

Thân gởi quý bạn,

Tôi có đọc thấy vài định nghĩa sau đây liên quan đến vấn đề, xin chép lại. Niết là không, Bàn là dệt. Niết bàn (Nirvana) là không còn dệt sinh tử. Theo kinh điển Đại thừa thì khi các bậc Thanh Văn thành tựu Không quán hay vào Diệt Tận Định mà chưa mãn báo thân thì gọi là đạt được Hữu Dư Niết Bàn, tức là Niết Bàn còn sót lại chút ít quả báo. Khi chết rồi thân tan rã hoàn toàn thì gọi là Vô Dư Niết Bàn, tức không còn để lại dấu vết gì cả.

HL: Cái này đọc kỹ thì thấy rằng Học Giả đã ghép thêm sự suy diễn của mình vào rồi.

1. Vế thứ nhất: Các Học Giả viết: Vô Dư Niết Bàn, tức không còn để lại dấu vết gì cả

2. Nhưng đến vế thứ hai, các Học Giả ấy lại ghi rõ: nhưng các ngài vẫn còn những tập khí của biến dịch sinh tử, những vi tế của sở tri chướng như những vọng tưởng về ta, về pháp giới...

Kết Luận:

Đã là không có dấu vết khi vào được Vô Dư Niết Bàn, thì lấy cái gì để giữ lại những tập khí đó. Câu này cũng giống như câu sau đây: Tui vừa mới gặp một ông Bác Sĩ Tây Y những ổng vẫn mù chữ. Vì đã là Bác Sĩ Tây Y thì không thể nào còn mù chữ được.

Cũng giống như đã là Vô Dư rồi thì không thể nào lại còn Tập Khí được nữa. Do nhân duyên nầy mà khi bàn về Chân Lý, đệ nhấn mạnh rằng: Chân Lý, nếu có, thì chỉ có một. Không có Chân Lý của anh, Chân Lý của tui! Hay rõ hơn: Không có Chân Lý của Tiểu Thừa và Chân Lý của Đại Thừa.

Mến.

Hòa: Tôi lại nghĩ hơi khác anh. Cái “Chân lý” rất khó xác định vì nó chập chờn giữa hai (hay nhiều) bờ mé. Cho nên chỉ có cái chân lý theo nhận thức của anh hoặc theo nhận thức của tôi. 

HL: Khi vào Hữu Dư là vào Diệt Thọ Tưởng Định: Có nghĩa là khi đó do lực công phu mà mình diệt được Thọ, Tưởng và kể cả cái Định luôn. Mấy phần chính đó mà mình đã diệt được thì không còn chỗ nào để mà chứa bất cứ tập khí nào cả.

Và sau đây là cung cách vào Vô Dư Niết Bàn: Trước hết phải dùng định lực để vào các cảnh giới trong Tam Giới để coi có chỗ nào mà không bị chi phối bởi cái Vô Thường không cái đã! Động tác nầy có tác dụng là chuẩn bị tâm lý cho hành giả khi Nhập Diệt. Động tác nầy phải được quán cho kỹ trong hai chiều: Chiều đi lên và chiều đi xuống. Do vậy mà Phật Thích Ca đã đi từ Sơ Thiền đến Phi Phi Tưởng rồi vào Diệt Tho Tưởng Định (Hữu Du Niết Bàn) và sau đó Ngài lại đi Từ Diệt Thọ Tưởng Định xuống lại Sơ Thiền (Còn gọi nôm na là Pháp Môn Thứ Nhất). Sau đó Ngài lại từ Sơ Thiền mà nhật định lần lược đến Tứ Thiền. Động tác kỹ thuật nầy là để trở về cung trời của sự làm chủ Tư Tưởng. Ở đây, Ngài kết hợp với trạng thái tâm lý trước đó và dùng khái niệm ba Pháp Ấn là (Khổ - Vô Thường - Vô Ngã) để Nhập Diệt luôn. (Gọi Nôm Na là Pháp Môn Thứ Nhì).

Hoà: Nhân đây, thầy Nhất Hạnh cho Vô Dư NB là Niết Bàn Tuyệt đối, khác với ý kiến trên…

HL: Nếu gọi là Giải Thoát rốt ráo là Chân Lý thì chỉ có một trạng thái gọi là Niết Bàn mà thôi. Do vậy, không thể có trạng thái Giải Thoát của anh và trạng thái Giải Thoát của tui được. Vì vậy mà không có tình trạng Giải Thoát của Tiểu Thừa và tình trạng Giải Thoát của Đại Thừa được. Làm gì thì làm, mình phải hội đủ cả hai (2) yếu tố:

Thành Sở và Bất Tại thì mới được gọi là Giải Thoát.

Nếu tụi mình có cuốn Đức Phật và Phật Pháp của Nãrada, thì trong khi Đức Phật Nhập Diệt, một A La Hán đã tường thuật lại rất rõ những động tác Kỹ thuật của Đức Phật. Đọc cho thật kỹ thì sẽ thấy khi quán các cảnh giới từ Sơ Thiền đến Phi Phi Tưởng (theo chiều đi lên) thì tụi mình gặp chữ Xứ khi Ngài leo đến những cõi Vô Sắc. Nhưng lúc đi xuống thì lại đụng chữ Định. Chi tiết rất nhỏ nầy chứng tỏ:

- Trong chiều đi lên: Ngài nhìn ra bên ngoài (do chữ Xứ mà ra) các cảnh giới và chứng nghiệm sự Vô Thường của nó.

- Trong chiều đi xuống: Ngài lại nhìn vào bên trong hành giả (do chữ Định mà ra) qua những tần lớp của Chánh Định để cũng chỉ chứng nghiệm sự Vô Thường của các Pháp Môn.

Khi đã dùng định lực mà quán cả trong lẫn ngoài kỹ lưỡng như vậy: Ngài đã chuẩn bị rất kỹ trạng thái tâm lý của mình để Nhập Diệt. Và sau đó Ngài trở về Văn phòng làm việc bằng cách Nhập Vào Tứ Thiền để làm chủ cái tư tưởng và Ngài dùng 3 Pháp Ấn là:

(Khổ - Vô Thường - Vô Ngã) để Nhập Diệt luôn.

Trên đây là bàn về chuyện của Phật, sau đây là chuyện của các Bồ Tát. Khi các Ngài đã vào Diệt Thọ Tưởng Định rồi thì có 2 phản ứng rõ rệt. Các Ngài đó sẽ quán coi mình có nhân duyên gì với Bạn Bè mình không! Khi làm động tác kỹ thuật như vậy các Ngài lại thấy:

1. Mình sẽ không có nhân duyên với ai cả! Do các tội ác mà mình đã gây ra trong các kiếp trước nên tất cả mọi người đều xa lánh tạo thành một hoàn cảnh Cô Độc.  Cũng vì hoàn cảnh cô độc đó mà mình sẽ Nhập Diệt trong kiếp nầy.

2. Mình lại có rất nhiều nhân duyên. Những thiện duyên nầy là do các Thiện Pháp (việc thiện) mà mình đã tạo ra ở những kiếp trước! Do vậy mà một cách tự nhiên mình vẫn còn có thể Phát Tứ Đại Nguyên khi vào Diệt Thọ Tưởng Định*.

Do phát được Đại Nguyện trong trạng thái cực kỳ thanh tịnh đó mà các Ngài đã gia nhập vào lực lượng Bồ Tát, là một lực lượng ở Lại để chỉ đường.

Mến.

Hai Lúa.

TB: Quý Vị nào đã coi phim Titanic thì sẽ thấy đại để hành động của những người ở lại đó: Trong hơn 20 thuyền đang chèo lái để thoát hiểm, thì chỉ có một chiếc lại quay đầu trở lại và họ lại kiểm tra từng xác người đang nỗi trên mặt biển băng giá đó. Trên biển khổ mênh mông đó, các Ngài thầm oán trách mình là đã trở về quá trễ khi nhìn những thân thể lạnh cóng, tê dại trong Vô Minh của Bạn Bè. Và dĩ nhiên, các Ngài đã vui mừng khôn xiết khi tìm thấy một thân xác còn hơi tỉnh thức để mà cứu vớt...

Lại Vô Dư Niết Bàn

Tue, 8 Sep 1998 23:01:50

Thân gởi anh Hai Lúa,

Tôi phục anh thật tình, trên diễn đàn hôm nay lại vẫn còn anh (là do cái Dũng của Mật?). Đó là lý do để tôi gởi anh thêm một mesg nữa.

Một điểm trong bài anh viết hôm nay rất gần với điều tôi có lờ mờ thấy ngay lúc đầu về chuyện nầy. Đó là cái “lắt lay” giữa Trạng thái của tâm thức và Cảnh giới Niết Bàn như được mô tả. Trong lúc bình thường thì hai cái đó, tức Trạng thái và Cảnh giới, khó mà gần gũi hay dính dáng gì với nhau. Thế nhưng trong điều kiện của Tuyệt đối về mọi mặt thì không biết sao mà nói được!. Tôi không muốn ăn nói “đàng hoàng” nữa, nhưng lại không biết cách nói chuyện nhiều khi nữa chơi nữa thiệt như anh mà lại cũng có lý lẽ!. Dẫu sao những gì tôi sắp viết chẳng phải là ý tưởng nghiêm túc đâu, đừng ai lấy đó làm điều. Cầm bằng như hai câu thơ Thiền:

Người khôn đâu ngộ đạo,

Ngộ đạo chỉ anh khờ!

(Trí nhân vô ngộ đạo Ngộ đạo tức ngu nhân)

(Nhân đây hỏi anh: ý hai câu trên là đúng hay sai? Hoặc không sai cũng chẳng đúng? Hoặc vừa đúng lại vừa sai?

Thật là thơ Thiền thứ thiệt!).

Trước hết tôi thấy trạng thái tâm thức liên hệ mật thiết với thời gian. Tâm thức biến đổi nhanh chóng trong từng sát na, một khoảnh thời gian thật ngắn, dưới sự chi phối của tính vô thường, và tạo ra những trạng thái tâm thức nầy no tiếp diễn. Thời gian trôi qua càng dài thì càng có nhiều trạng thái tâm thức khác nhau kế tục. Vì tâm thức thay đổi theo vô thường nên cái tâm cũng là vô ngã và là đầu mối cho những vọng tưởng, khổ đau. Nhưng ở trong Niết Bàn thì cái hiện hữu trong một sát na ngắn ngủi được kéo dài ra, dài mãi để sát na (thời gian) thành hằng cửu và hiện hữu (không gian) thành vĩnh cửu. Thời gian như chậm lại rồi dừng đứng hẳn. Lúc đó nếu là hoa, là nước thì hoa như không bao giờ tàn, nước như không bao giờ chảy (nói theo kiểu mấy nhà thơ dỏm).  Lúc nầy thì Vô Thường trở thành Thường, và đương nhiên Vô ngã cũng phải thành Ngã. Điều kiện để tạo ra trạng huống đó là sự Tịch Tĩnh của Tâm, và hệ quả đi theo là An Lạc, chấm dứt khổ đau. Kinh Đại Thừa nói Niết Bàn là nơi có THUỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH tôi hiểu là như vậy (kinh Nam Tông chỉ nói đến Tịch Diệt).

Thoạt nhìn thì “Thường Lạc Ngã Tịnh” như là “Trạng thái” của cái Tâm. Nhưng còn đâu là cái Cảnh trước kia? Cái “thế giới” Niết Bàn đó chỉ có Tâm chớ không có Cảnh hay sao? Sao có nói khi giác ngộ rồi Tâm và Cảnh, Kiến phần với Tướng phần, Ngã và Pháp trở nên bình đẳng vô phân biệt, tức như là một, vì cùng một Bản Tánh Chân Như?  Vậy thì tôi đành chịu nhận ở trong Niết Bàn Tâm với Cảnh cũng chỉ là một, và nếu có khác là tuỳ theo cách nhìn. Cho nên có thể quan niệm: NB vừa là Tâm trạng vừa là Cảnh giới.

Vẫn biết, nghĩa là tôi cũng nghe nói chớ, không thể đem cái tâm nhỏ bé tương đối để tìm hiểu cái Bản thể to lớn tuyệt đối. Nhưng đôi khi cũng muốn đùa chơi với mình (tôi muốn hỏi anh Matt Trần: có lúc nào thời gian và không gian gặp nhau không, hình như có lý thuyết khi thời gian chậm lại thì không gian nhỏ đi). Và nhất là những lúc diễn đàn hơi vắng như vầy thì viết đôi điều gì đó để anh đọc cho vui.

Thân

Hòa

Wed, 09 Sep 1998 14:50:23

HL: Huynh Hoà lại hỏi thì nương vào đó, đệ đố lại.

Huynh viết:

Cầm bằng như hai câu thơ Thiền:

Người khôn đâu ngộ đạo,

Ngộ đạo chỉ anh khờ!

(Trí nhân vô ngộ đạo. Ngộ đạo tức ngu nhân)

Luận về hai câu nầy thì phải viết ra cả cuốn Tự Điển mới hết được ý của Thiền Sư.

- Cách hiểu thứ nhất.

Trong phong cách nói chuyện: Hễ ai mà hay bàn về Ngộ Đạo thì... người đó chưa Ngộ. Hễ ai mà hay bàn về phương cách độ người nầy, kẻ kia thì người đó đã Ngộ rồi. [Đúng] [Sai] [Tùy].

- Cách hiểu thứ hai:

Hễ ai mà xác định rằng mình đã Ngộ, thì kẻ đó chưa Ngộ. Và kẻ nào mà nói lấp lửng con cá vàng thì là người đó đã Ngộ [Đúng] [Sai] [Tùy].

- Cách hiểu thứ ba:

Ai mà làm thì đã Ngộ (Cái Trí thể hiện qua hành động vô tác). Còn ai mà bàn thì chưa Ngộ (Cái Trí thể hiện qua lời nói) [Đúng] [Sai] [Tùy].

- Cách hiểu thư tư:

Người Khôn thì không cần Ngộ (khôn lanh, nói sạo, làm áp phe...). Người khờ (hết thời, thối chí) thì cần Ngộ (đi tu). [Đúng] [Sai] [Tùy]

- Cách hiểu thứ năm:

người khôn thì không cần Ngộ chỉ cần hiểu-biết thôi.

*Người Ngu thì cần Ngộ [Đúng] [Sai] [Tùy].

Mến.

Hai Lúa.

845
5.4972999095917 sec