103. Vi Diệu Pháp

103. Vi Diệu Pháp

Tập Tin / Tập Tin V    Xem 433     16 năm trước

Tập Tin V

Bài 103. Vi Diệu Pháp

Vi Diệu Pháp

Huynh KKT có nhắc lại với đệ rằng:

Huynh nói rằng: “Đệ dùng Abhidhammatthasangaha (Vi Diệu Pháp) để luận về các pháp môn tu hành. Đối với các Pháp Tu Hành, Vi Diệu Pháp là cái thước đo chính xác nhất mà Phật đã giảng ở cung trời Đao Lợi” Dường như Huynh đã viết về đề tài này rồi, nhưng đệ đã quên mất (hi hi). Nay Huynh có thể viết lại về đề tài này được không, ngắn gọn cũng được: “Vi Diệu Pháp như Huynh nói đó là gì? Và để đo các pháp tu ra làm sao?”

Hí hí, Huynh lại bắt đệ nhét con voi vào lỗ kim đây.

Việc cố gắng vắn tắt một cuốn Luận thì đúng là việc đội đá và trời. Thôi kệ chơi đại coi ra sao? Hí hí

Vi Diệu Pháp là gì?

VDP là môn Tâm Lý Học của Phật Giáo, trong cuốn đó Phật đã thống kê một lô chuyện của Tâm và đọc từ đầu đến cuối (2 tập) như vậy thì mình bị rối mù liền.

Chìa khóa: Cái chương hay nhất và có thể ứng dụng được là Lộ trình của tâm (Cittavĩthi) Tập 1, Chương 4. (Thắng Pháp Tập Yếu Luận, hay Vi Diệu Pháp của HT Thích Minh Châu dịch và giải). Và cái bản đồ của lộ trình này được vẽ lại một cách bác học do HT Nãrada trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp (DPvPP) ở Chương 20: Sự Báo ứng Của Nghiệp, ở tr. 375 (sách của đệ). Mời các Bạn và mấy Huynh lật cuốn (DPvPP) ra để dễ nói chuyện.

Đặc Biệt: Anh Sơn và đệ có chữa thêm cái phần Tốc Hành Tâm trong cuốn (DPvPP) như sau: Trong bản đồ Lộ trình của Tốc Hành Tâm (javana) gồm 7 chập tư tưởng có đánh dấu từ số 8 đến số 14 (và bỏ trống), tụi đệ có ghi thêm rằng:

8: Chuẩn Bị

9: Thuận Thứ

10: Cận Hành

11: Chuyển tánh

12: An Chỉ

13: Đạo Quả 1 (Hữu Dư Niết Bàn).

14: Đạo Quả 2 (Vô Dư Niết Bàn).

Quái một điều là trong sách VDP có ghi là chập số 9 và 10 lần lượt là: Cận Hành, rồi đến Thuận Thứ. Trong khi đó, hai anh em đệ vào Vô Sắc để nhập định về lộ trình này và đều ghi nhận rằng: Ở hai chập nầy (9 và 10) lại lần lượt là: Thuận Thứ rồi mới đến Cận Hành. Việc này, tụi đệ tha thiết nhờ các Huynh tập ngầu đời lên và kiểm chứng lại để nhất quán.

Mến.

Hai Lúa.

 

Vi Diệu Pháp 2 (VDP)

Mon, 24 Aug 1998 17:14:09

Chào Huynh KKT và các Bạn.

Huynh lại đụng đến một vấn đề ngầu đời nữa: Nghiệp và phàm tâm. Theo Kinh nghiệm và khi coi về những căn bệnh thể hiện qua những giác quan của con người, đệ có nhận định rằng: Khi luồng bhavanga đứt vòng và nó đụng phải năm giác quan thì nó tạo nghiệp rồi.

Thí nghiệm: Con mắt cận thị là con mắt hay nhìn vật bất tịnh (Hí Hí), nay tập nhìn vật thanh tịnh (tượng Phật...). Đệ có cặp mắt cận thị và loạn thị nay đã dừng độ không tăng và con mắt phải đã thấy rõ lại rồi cũng do chiêu thức trên.

Con mắt của con gái rụ của đệ cũng nhẹ bớt độ.

Như trong lộ trình của Tâm mà huynh có ghi lại:

(1)        Past Bhavanga (Atita Bhavanga)

(2)        Vibrating Bhavanga (Bhavanga Calana)

(3)        Arrest Bhavanga (Bhavanga Upaccheda)

(4)        Sense-door consciousness (Avajjana)

(5)        Sense-consciousness (Panca Vinnana)

(6)        Receiving consciousness (Sampaticchana)

(7)        Investigating consciousness (Santirana)

(8)        Determining consciousness (Votthapana)

(9,10,11,12,13,14,15) JAVANA

(16,17) Registering consciousness (Tadalambana)

Hay theo cuốn (DPvPP):

(1)        Bhavanga vừa qua

(2)        Bhavanga rung động

(3)        Bhavanga đứt vòng

(4)        Ngũ môn hướng tâm

(5)        Ngũ quan thức

(6)        Tiếp thọ tâm

(7)        Suy đạc tâm

(8, 9, 10, 11,12,13,14) JAVANA

(15) Xác định tâm

(16,17) Đăng ký tâm.

Cùng một tác giả, cùng một cuốn sách mà mà Lộ Trình đã ghi khác nhau rồi. Thế nhưng trong tập VDP của HT Thích Minh Châu lại ghi:

(1)        Bhavangạcalana (Bhavanga rung động)

(2)        Bhavangupacheda (Bhavanga đức vòng)

(3)        Pancadvaravajjana (Ngũ môn hướng tâm)

(4)     Cakkhuvinnana (Nhãn thức hay một trong 4 thức khác)

(5)        Sampaticchana (Tiếp thọ tâm)

(6)        Santirana (Suy đạc tâm)

(7)        Votthapana (Xác định tâm)

(8 - 14) JAVANA (Tốc hành tâm)

(15 - 16) Tadalambana (Đồng sở duyên tâm) (có thể là đăng ký tâm?) Hí Hí.

Như vậy luồng Javana là một chuỗi rung động của Tâm thức đi liền sau (Xác Định Tâm) mà các sách không có ghi rõ ràng tên tuổi của 7 sát na đó là cái gì! Có thể nói ở đây, luồng Javana biểu diễn hấp lực của tâm thức đối với một đối tượng.

Một hấp lực yếu: Javana chỉ rung động trong 1 tới 3 sát na.

Một hấp lực gọi là mạnh thì javana lại rung động lâu đến 7 sát na.

Bhavanga có 2 nghĩa:

- ý chí muốn sống

- Kinh nghiệm của tâm thức qua nhiều lần chết đi sống lại và nó tạo nên cá tánh riêng biệt cho từng cá nhân một. Rõ ràng hơn: Nó là Nhân của Kiếp này.

Mến.

Hai Lúa.

Vi Diệu Pháp 3

Viết bài (2) và đọc lại thì thấy rằng đệ quên chấm phết đâm ra vấn đề đã tối lại càng rối thêm.

Tất nhiên những đoạn nói về Sinh *Trụ Hoại Diệt có ý nhấn mạnh đến sự sinh hoạt của một tư tưởng. Rõ ràng hơn: Từ ý chí muốn sống hay cá tánh đặc biệt của mình (Bhavanga) tâm thức có hai hướng để khởi phát: Nó có thể “phóng tâm” theo một đối tượng ở bên ngoài hay có thể móng tâm, tự tạo ra một đối tượng ở bên trong.

Vì đối tượng đó đều thuộc về những cặp đối đãi như (khoẻ - mệt), (giàu - nghèo), (nhiều - ít), (sống - chết)... Nên luồng Bhavanga hay bản ngã (ý chí muốn sống + cá tánh), bị kích thích liên tục.

Do định luật tự nhiên: Tư tưởng này làm nhân cho tư tưởng kia phát sinh. Nên Đức Phật đã bắt hay dạy tâm thức hoạt động trong phạm vi Trung-Tính mà thôi. Dựa trên nguyên tắc căn bản này, Ngài đã dần dần làm cho luồng Bhavanga ngưng phát triển bằng cách cũng lợi dụng vài sát na cuối cùng là Đăng Ký Tâm. Trong sát na này, lúc sắp hết hoạt động Tư Tưởng dồn hết năng lực của nó qua tư tưởng kế tiếp. Như vậy chính nó là nhân cho tư tưởng kế tiếp.

Tất nhiên, đoạn này là đệ nói tiếp đến 3 phần căn bản của Phật Pháp đó là Giới Định và Huệ mà đệ đã bàn luận 2 phần ở bài trước. Nay lại đến phần: Huệ

Xét vì thời gian sinh hoạt bình thường hàng ngày nhiều hơn là thời gian tu tập nên không còn cách nào hết là phải tạo một Tư Tưởng Trung Tính* đủ mạnh để có thể ảnh hưởng đến những tư tưởng loạn động trong đời sống hàng ngày. Trở về lộ trình của tư tưởng, tụi mình thấy:

(1)        Past Bhavanga (Atita Bhavanga)

(2)        Vibrating Bhavanga (Bhavanga Calana)

(3)        Arrest Bhavanga (Bhavanga Upaccheda)

(4)        Sense-door consciousness (Avajjana)

(5)        Sense-consciousness (Panca Vinnana)

(6)        Receiving consciousness (Sampaticchana)

(7)        Investigating consciousness (Santirana)

(8)        Determining consciousness (Votthapana)

(9,10,11,12,13,14,15) JAVANA

(16,17) Registering consciousness (Tadalambana)

Hay: (đệ đã sửa lại vị trí của Xác định tâm cho đúng):

(1)        Bhavanga vừa qua

(2)        Bhavanga rung động

(3)        Bhavanga đức vòng

(4)        Ngũ môn hướng tâm

(5)        Ngũ quan thức

(6)        Tiếp thọ tâm

(7)        Suy đạc tâm

(8)        Xác định tâm (9,10,11,12,13,14,15) JAVANA (16,17) Đăng ký tâm.

Tụi mình nhận thấy rằng:

Nếu một tư tưởng chỉ đến cao độ là Suy Đạc Tâm (có nghĩa là: Suy Diễn) và sau khi suy diễn xong thì lại đến chuyện Xác Định Tâm (có nghĩa là Chấp Nhận hay không chấp nhận) thì quả thật: Tư tưởng đó còn quá yếu.

Như đệ đã bàn trước đây: và Huynh KKT đã dịch ra là JAVANA là impulsion. Thì đối với một tư tưởng trung tính 7 sát na của luồng JAVANA trong điều kiện này lại có tên tuổi đàng hoàng:

9.         Chuẩn bị

10.       Thuận Thứ

11.       Cận Hành

12.       Chuyển Tánh

13.       An Chỉ

14.       Đạo Quả 1

15.       Đạo Quả 2

Với những tác dụng rõ ràng mà đệ đã bàn kỹ trong bài Nimita... vào tháng 2 1997.

Tóm lại:

Khi Chú Ý nhiều lần (lâu ngày) đến một tư tưởng *Trung Tính* thì cái lực của tư tưởng của mình có thể vươn lên đến chuỗi (9-11) hay (chuẩn bị, thuận thứ, cân hành).  Tư tưởng lúc này đã mạnh hơn nhiều nếu so với giai đoạn Suy Đạc Tâm và Xác Định Tâm.

Mặc dù, lúc nầy mình có thể Xuất Hồn, hay *Thấy Một Vài Linh Ảnh*. Những tính chất của những hiện tượng đó là:

1. Linh ảnh hay cảm giác xuất hiện một cách Xuất kỳ bất ý (không báo trước) như: nổ trong đầu (không báo trước), nước tuông xuống trong miệng (không báo trước), tê rần từng luồng (không báo trước)... hay về linh ảnh thì có cảnh hoa rơi (Xuất kỳ bất ý), núi đồi trọc, rừng già, vườn đầy trái cây, con mắt trái (Xuất kỳ bất ý).

2. Không thể điều khiển cho chính xác được. Nếu xuất hồn thì không thể trở lại nơi mình đã *Vô Tình* xuất hồn đến đó. Tính chất vô tình xuất hồn đến đâu đó rất là rõ. Nếu nói về luận đoán thì xác suất cao nhất là: 70% là đúng mà thôi. Ví dụ khi đoán tên coi có đúng không thì đối với tên của đệ thì họ chỉ có thể nói được rằng: Tên của anh bắt đầu bằng chữ P có đúng không? Nhưng nếu mình muốn chữ kết tiếp thì họ không thể nào đoán được nữa.

3. Tính chất Nói Ra là Bị Mất lại rất rõ.

Vì vậy, khi nghe những Bạn khác bàn về cách tu tập của mình mà họ có nói đến những tính chất trên thì mình biết rằng pháp môn của họ chỉ đến Cận Định mà thôi.

Mến.

KKT: Nói tóm tắt tức là Huynh căn cứ vào mức độ (17 moments-thoughts scale) KIỂM SOÁT được luồng tư tưởng (bhavanga) mà biết được trình độ của từng pháp môn?

HL: Thường thì đệ hay dùng các tính chất, hay biểu hiện của những sát na tư tưởng trong luồng Javana (tốc hành tâm) để làm thước đo về các công phu tu tập.

Nay xin tiếp đoạn Huệ.

Như vậy nguyên nhân chính dẫn đến mức độ Cận Định là do cung cách tu tập. Các Bạn ấy hay tu tập như sau: Họ dùng một giác quan (ở đây là nhãn quan) và tập trung vào một điểm (phát sáng hay không phát sáng) ví dụ như:

NHìN vào Mặt Trời lức sáng sớm, NHìN vào đóm nhang, NHìN vào chữ Lam hay Rãm (chữ Tây Tạng)...

Nếu khi dùng một niệm nào đó thì Các Bạn lại có khuynh hướng tập trung vào một nơi nào đó ngay trên thân thể ví dụ: Đỉnh đầu (huyệt Bách Hội), hay những điểm khác trên thân thể... Lúc này Các Bạn lại dựa vào Xúc Giác để tập trung tư tưởng.

Nếu có dùng những ký hiệu thì sau khi qua giai đoạn vẽ trên các tờ giấy, Các Bạn ấy lại hay dùng lưỡi để vẽ các ký hiệu ấy. Lần này, Các Bạn lại dùng Vị Giác để tu tập vv... và vv....

Kết Luận:

Như vậy, hễ dùng một trong Năm Giác Quan để tập trung tư tưởng thì cao nhất là chỉ đi đến Cận Định mà thôi. Trở lại luồng Javana thì kế tiếp 3 sát nà (Chuẩn Bị, Thuận Thứ, Cận Hành) thì đến: Sát Na Chuyển Tánh. Sát Na Chuyển Tánh lại cho mình biết về một thái độ tu tập khác hẳn những cung cách tu tập đã nêu ở trên:

Đúng như cái tên của nó là Chuyển Tánh.

Tất nhiên, ở sát na tư tưởng này: Nó có thể “Chuyển cái Cá Tánh của mình”. Nó Chuyển ra làm sao? Xin mời các Bạn xem hồi sau sẽ rõ! Hí Hí

Mến.

Vi Diệu Pháp 4

Nay đệ lại tiếp phần Huệ Huệ

Nếu tụi mình cứ nhất định tu tập dựa trên những Giác Quan để mà tập trung tư tưởng thì cao nhất là mình chỉ làm cho luồng Javana rung động ở nhiều nhất là ba sát na tâm thức (Chuẩn Bị, Thuận Thứ, Cận Hành)! Ba sát na này chỉ đem ta đến một mức độ Gần nhập định hay *Cận Định* mà thôi.

Tại Sao?

Vì ở đây tâm thức bị phân chia ra làm hai: Một nơi là Cái Ý Thức và một nơi là Cái Giác Quan nào đó, vì bị phân lực như vậy không làm ăn gì được ngoài cái Cận Định.

Vì vậy mà nếu tụi mình chịu chơi và làm một cuộc cách mạng theo đúng kiểu cách mạng về tâm linh của Đức Phật thì mình sẽ đóng tất cả 5 giác quan đó lại mà chỉ dùng có một cửa thôi: Đó là dùng cánh cửa Ý Thức để mà tu tập cách này chắc chắn sẽ làm cho luồng javana rung động thêm một sát na tâm thức nữa đó là Sát Na Chuyển Tánh.

Cung cách này có nói rất rõ trong phương pháp Như Lai Thiền. Tại sao nó có thể chuyển cái cá tánh mình được?

Vì cái sát na kế tiếp sát na Chuyển Tánh là Sát Na An Chỉ chính cái An Chỉ này sẽ Đăng Ký vào luồng Bhavanga. (HÍ Hí! độc nghe! độc nghe!). Một cách vô tình, cung cách tu tập này lại làm cho nó An Chỉ luôn, có nghĩa là Thanh Tịnh. Mà tính chất của luồng bhavanga là “ý chí muốn sống” + *cá tánh”. Các Bạn thử nghĩ nếu cả hai cái đó mà Thanh Tịnh thì sẽ đi về đâu?

Hết

Mến. 

KKT: Xin hỏi Huynh HL một câu: Muốn thể nghiệm những điều này BắT BUộC phải nhập được Tứ Thiền, Tứ Định? Bởi khi đó tư tưởng mình đi chậm lại cũng như phim quay chậm vậy, nên mới có thể thấy rõ từng giai đoạn của tiến trình, phải không?

HL: Đại Khái là như vậy, nhưng thực tế thì công phu hơn nhiều. Đầu tiên hết, là nhập cho thật dễ dàng vào cung Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng cái đã (*Sơ sơ rơ măng* cũng mất cỡ ba tháng). Sau đó là Tác ý về một đề tài bất kỳ nào đó có liên quan đến đời sống hằng ngày. Ví dụ như: Lộ trình tâm thức trong trường hợp chữa bệnh bằng châm cứu:

Thì trong khi vẫn giữ mức độ nhập định trên thì những tư tưởng của lộ trình tâm thức: Xuất hiện tuần tự như sách đã liệt kê, đặc biệt khi đến Luồng Javana thì tư tưởng xuất hiện như sau: Javana rung động ba sát na rất yếu! Vì vậy mà khi trình bày lộ trình tư tưởng: Đệ có nhấn mạnh rằng trong khi suy nghĩ bình thường ít khi luồng javana rung động lắm. Và khi mình động não lắm lận thì lúc đó luồng javana có rung động những rất yếu và chỉ cao lắm là 3 sát na mà thôi.

Nhưng đến khi quan sát lộ trình của một tu sĩ của một môn phái nào đó: Thì lúc này, luồng Javana lại có tên như đệ đã bàn đến trong các bài trước.

Đặc biệt, khi tụi đệ dùng Chánh Định để coi lại tiểu sử của Phật Thích Ca thì tụi đệ có để ý đến chuyện Đức Phật phải lên cung trời Đao Lợi để thuyết pháp về Vi Diệu Pháp. Khi tới cảnh đó thì đệ hiểu rằng: Sở dĩ có chuyện đó là vì lúc đó, các tu sĩ chưa đủ sức để hiểu những lý luận về Đệ Nhất Nghĩa Đế trên con người, mà chỉ có Xá Lợi Phất là đủ sức mà thôi (Đại Trí mà).

Sau nầy, khi Đức Phật nhập Niết Bàn, có một lúc, các tu sĩ Phật Giáo phải né các tu sĩ Tà Đạo vì không giải quyết được những câu hỏi của họ về hiện tượng tu hành hay về hiện tượng siêu hình.

Sau đó nhờ vào Vi Diệu Pháp -- (do các tu sĩ lỗi lạc thời đó đã cố gắng nghiên cứu lại) -- mà các thắc mắc của các tu sĩ ngoại đạo mới được giải đáp thoả đáng.

Vì thật ra cách tu của Đức Phật là:

Đâu có thấy cái gì nhiều lắm đâu? Và nhất là ít có bị những hiện tượng này, hiện tượng nọ chi phối lắm! Trong khi những hệ thống, cung cách tu hành khác lại gặp đủ thứ chuyện như một lô các hiện tượng về Cận Định. Sở dĩ ít thấy nầy, thấy nọ là vì Phương pháp tu của Đức Phật là dùng cách quán tưởng đề mục mà nhập ngay vào Chánh định. Có nghĩa là thông qua ba sát na đầu tiên về Cận Định của luồng javana (Chuẩn Bị, Thuận Thứ, Cận Hành) mà đi đường tắt vào ngay phần Chánh Định đó là sát na Chuyển Tánh rồi đến An Chỉ. Trở lại vấn đề, các tu sĩ Phật Giáo thời đó hễ bị hỏi, lại thường thành thật trả lời rằng: “Tụi tui đâu có thấy gì đâu?”

Vì vậy mà các tu sĩ ngoại đạo khác lại tuyên bố rằng:

“Mấy ông tu hành cái gì vậy! Tụi tui tu một vài tuần là đã thấy nầy, thấy nọ, xuất hồn tá lả mà mấy ông tu lâu năm hơn mà không thấy gì hết, thậm chí đến khi tụi tui hỏi thì lại không trả lời được như vậy thì *Đại Giác* cái nỗi gì!

Tất nhiên, Các Tu sĩ Phật Giáo chỉ có muốn Giải Thoát mà thôi nên việc cãi cọ nầy nọ là ngoài chương trình. Do vậy mà họ né và tìm vào núi, rừng tu hết. Sau đó một số các tu sĩ Đắc Đạo lại được dịp tiếp xúc với những tu sĩ ngoại đạo đó và họ đã dùng Vi Diệu Pháp để chứng minh, và nêu rõ những nguyên nhân mà các tu sĩ ngoại đạo đó thường gặp, và giải quyết rốt ráo cho họ. Và như vậy mới thật đúng là Đại Giác.

Mến.

Hai Lúa.

841
0.064382791519165 sec