42. Quan Thế Âm qua lăng kính Mật Tông

42. Quan Thế Âm qua lăng kính Mật Tông

Tập Tin / Tập Tin IV    Xem 409     17 năm trước

Tập Tin IV

Bài 42. Quan Thế Âm qua lăng kính Mật Tông

Nghe chuyển âm:

Quan Thế Âm qua lăng kính của Mật Tông

Mon, 2 Dec 96 15:11:19 UT

Chúng ta có hai cách để hiểu Phật Pháp về các danh từ như: Tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ xong rồi Xả (Chớ đừng có cất) nói tóm lại là những trạng thái tâm lý.

(1) Đọc kinh sách Phật Pháp vốn là cách thông thường, ở những chỗ do nhiều phước báu họ có thể tìm hiểu dễ dàng qua kinh sách hay qua các bài giảng của những người Thầy giỏi. 

(2) Ở những chỗ kém phước báu hơn [Ví dụ như vào thời kỳ đầu tiên mà Phật Pháp bành trướng lên rặng núi Hy Mã Lập Sơn, Ngài Thanh Liên Hoa Bồ Tát, một thân một mình leo núi thì ai là người đem theo Tam tạng kinh điển?] Thành thử họ phải dùng phương tiện Pháp Thân mà học, một phương tiện ít cần đến sách vở?

Pháp thân Quan Thế Âm Bồ Tát.

Pháp thân này gồm 6 hình (y như 6 mặt của cục rubik vậy!). Hay là một hình khối lập phương.

1. Thường là một hình của một bà/ông tay trái cầm bình Cam Lồ, tay phải hoặc bắt ấn Cam lồ hoặc là cầm nhành Dương Liểu. Công dụng: Độ những người còn sống như chúng ta đây hay độ sinh.

2. Đằng sau hình (1) là hình của Tiêu Diệm Vương. Hình này là hình một con quỷ da đen tay trái cầm một cái cờ, tay phải xòe thẳng hết tất cả các ngón tay tạo thành ấn Thí Vô Úy (cho cái không sợ). Đặc biệt hình này ông này hay lè một cái lưỡi màu đỏ dài tới rún, hình tướng dữ tợn. Công dụng: Độ tử

3. Mặt bên trái của hình (1) ta lại có một hình khác nữa! Đại diện cho tâm Từ 

4. Mặt bên phải của hình (1) lại là một hình khác nữa! Đại diện cho tâm Bi

5. Ở dưới nhìn lên của hình (1) Lại là một hình khác nữa! Đại diện cho tâm Hỉ

6. Ở trên nhìn xuống của hình (1) Lại là một ông tiên già cầm gậy! Đại diện cho tâm Xả

Ví dụ như hành giả muốn học tâm Từ: Hành giả nhập vào Tứ Thiền Hữu Sắc và quán ra hình (1) rồi tác ý qua bên trái.

Tui thì lại thấy hình Đức Quan Âm Ngồi chân co, chân duỗi, bên trái là bình Cam lồ và nhành Dương Liểu được cắm vào trong bình, cả hai đều để trên mặt đất. Khi vào được thì ngài liền Thần giao cách cảm (Hay làm cho tâm tui lắng xuống và rung động theo kiểu tâm Từ) Trạng thái Tâm ấn Tâm này không thể diễn tả được qua lời nói hay thí dụ vì thế mà gọi cách này là Mật vậy.

Một ví dụ nữa: Giải quyết công án Âm Thanh của một bàn tay (Như các bạn vừa rồi có thưởng thức kết quả qua bài Âm thanh Phật giáo qua lăng kính của Thiền tông).

Vì đây là một câu hỏi của người sống (tất nhiên) nên hình tướng để quán là Hình (1) với công dụng là Độ Sinh: Công thức là nhập vào Tứ Thiền Hữu Sắc: Quán hình (1) rồi đặt câu hỏi: Thế là vấn đề được giải quyết xong. Cái này cũng là Mật vì các bạn chỉ có thể đọc thôi còn Hai Lúa tui thì còn được chiếu phim cho coi nữa.

Trả lời: Anh bạn về cái ông/bà Phật ngồi trên đầu của tượng Quan Thế Âm: Đó không phải là linh hồn mà chỉ là mục tiêu phải đạt đến của hành giả Mật Tông sau khi đã qua được giai đoạn Bồ Tát: Quả vị Phật. Trong trường hợp này, là Hành giả còn một bước nữa là quy hướng về pháp Thân A Di Đà Phật để học tiếp với (6) mặt có ý nghĩa tuần tự như sau:

(1) Giải Thoát

(2) Độ

(3) Không

(4) Đoạn

(5) Khổ

(6) Chấp

Câu chuyện còn rất dài hẹn thư sau sẽ nói tiếp.

Hai Lúa.

Quan Thế Âm

Thu, 26 Dec 96 15:39:04 UT

Nhớ lại hồi mới... quen ông Phật, Hai Lúa tui, đi chùa nào cũng thấy cái bà Phật màu trắng tay cầm cái bình hoa. Hai Lúa tui mới hỏi mấy anh bạn về cái tượng đó, bèn được nghe một bài pháp trích từ kinh Phổ Môn: “Nếu muốn tui hiện ra làm quỷ sứ để giảng đạo thì tui sẽ theo bi nguyện mà hiện ra...” Đại để nó như vậy... Với tính tình ngây thơ cụ và chất phát, tới hôm ấy, Hai Lúa tui mới xin Ổng nếu linh thiêng thì hãy giảng cho Hai Lúa tui một bài Pháp, và tui yêu cầu rằng bài pháp này phải được nói từ một người có những đặc tính như sau:

(1) Không quen biết.

(2) Do một người không biết gì về Phật Pháp mà nói.

Thế là sáng hôm sau, Hai Lúa tui vác bị châm cứu đi thăm bệnh. Trên đường đi, Hai Lúa tui phải qua chợ Đà Lạt. Trong khi đang đi trên dốc Lê Đại Hành, một bà cán bộ đã mắng đứa con trai như sau:

- Mầy ôm cho cố vào! Zồi mầy kêu nà khổ!

Bài pháp ngắn gọn này, thỏa hai điều kiện trên! Hai Lúa tui vái dài sự linh nghiệm của Quan Thế Âm.

Hai Lúa.

TB: Sau đó tui mới hiểu rõ được ý nghĩa của tựa đề “Phổ Môn” của Kinh: Ở đâu có cái cửa là ở đó có Quan Thế Âm.

565
1.4948918819427 sec