47. A La Hán

47. A La Hán

Tập Tin / Tập Tin IV    Xem 614     17 năm trước

Tập Tin IV

Bài 47. A La Hán

A La Hán...

Sunday, December 08, 1996 6:31 PM

dantran: ... tôi nhớ câu: “Ở tướng mà không chấp tướng”, ý nói các vị Bồ Tát khi độ chúng sinh, vào cõi và cũng như chúng sinh, ăn uống, hành dâm... tỉnh bơ để gần gũi với chúng sinh mới dễ độ được. Vì các ngài biết Pháp nên không sợ pháp, khác các hàng Thanh Văn, Duyên Giác khi tới quả vị A La Hán phá được Ngã chấp, thoát được luân hồi nhưng còn chấp Pháp, nên sợ pháp.

BA: Làm sao anh biết là hàng Thanh Văn, Duyên Giác, A La Hán còn “chấp pháp nên sợ pháp”?! Có lẽ anh đã dựa theo sách vở và kinh điển Đại Thừa Mahayana... Tuy nhiên, để góp ý và cùng học hỏi với các bạn, tôi xin trình bày các hiểu biết của tôi về A La Hán theo quan niệm của Phật Giáo Theravada (Nam Truyền, Nguyên Thủy):

1. Trong kinh Nguyên Thủy, không có vấn đề phân loại các hàng Bồ Tát. Thanh Văn, Duyên Giác, A La Hán, v.v... như trong Mahayna. Trong các kinh điển Nguyên Thủy, tôi không bao giờ thấy định nghĩa và cách dùng của cụm từ “chấp pháp nên sợ pháp” dành cho A La Hán cả! Nếu bạn nào thấy trong bài kinh nào của tạng Pali Nguyên Thủy thì xin làm ơn cho tôi biết.

2. Trong thời đại của Đức Phật Thích Ca, khi giáo pháp của Ngài vẫn còn phổ quát, hiểu và thực hành được như là ngay trong thời đại nầy của chúng ta, thì những ai đã được giác ngộ hoàn toàn sẽ được gọi là A La Hán. Bởi vì họ là những người thực hành lời Phật dạy mà được giải thoát, nên gọi là A La Hán. A La Hán là Phật, Phật là A La Hán, chỉ đơn giản vậy thôi. Không có phân chia rắc rối theo kiểu Mahayana làm gì!

3. Cả Mahayana và Theravada đều tán dương Đức Phật qua 10 danh hiệu (các bạn có nhớ không?!), trong đó “Bậc Ứng Cúng” là 1 danh hiệu. “Ứng Cúng” là gì? Là người xứng đáng để ta cúng dường. Đó là chữ Tàu, dịch theo nghĩa đen của chữ... A La Hán! Vậy thì trong 10 danh hiệu của Đức Phật, A La Hán là một danh hiệu, người Phật tử Mahayana lẫn Theravada đều tán thán như thế. Nay nếu bảo rằng A La Hán là người “chấp pháp nên sợ pháp” thì quả thật là mâu thuẫn!

4. Trong Phật giáo VN, ta thường nghe niệm hồng danh “Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni” mỗi khi nghe giảng pháp. Đối với các Phật tử Theravada, từ Thái Lan cho đến Tích Lan, họ lại niệm như sau: “Nammo tassa bhagavato arahato samma sambuddhasa”, nghĩa là: Nam mô Đức Thế tôn, Bậc Ứng cúng (A La Hán), Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Như thế, A La Hán và Phật đều không khác, đều là người giác ngộ (theo quan điểm của Phật Giáo Nguyên Thủy).

With Metta,

Bình Anson.

HL: Hai Lúa tui cũng đụng những câu nói này trong những lúc tranh luận về cái gọi là Tiểu Thừa và cái gọi là Đại Thừa. Thực tế, những câu nói tương tự như trên đều do các Nhà Học Giả nói nhiều hơn là Tu sĩ thứ thiệt nói. Theo sự suy luận của Hai Lúa tui: Học giả là những anh nhà giàu, đẹp trai, học giỏi, trong những giờ rảnh rỗi hỗng biết làm gì nên mới mò vô lãnh vực Phật Giáo để sưu tầm, tóm tắt và cô đọng, so sánh những vấn đề xem như then chốt. 

Đầu tiên họ chỉ dừng lại ở đó mà thôi.

Thế nhưng, khi họ tìm tòi trong kinh tạng, họ lại gặp hai loại kinh nhác nhau: một loại thì lăn xả vào đời làm chính trị, thương mãi, động đĩ cứu người loạn cào cào cả lên (Kinh Duy Ma Cật), và một loại thứ hai cứ lẩn vào rừng rậm mà tìm đường đi tu.

Thế là bút chiến xảy ra.

Loại Học Giả là loại ưa tranh luận hơn là ưa Tu. Và vì Không Tu (Họ cứ tưởng Phật giáo là một môn như Triết Học Cao Đẳng) nên họ không bao giờ thấy được mối liên quan giữa Kẻ đi độ chúng sinh và người Đang Tu là như thế nào. Theo quan niệm của họ:

Cứ hễ vào rừng là...  bọn Tiểu Thừa.

Và hễ ai giúp người là... Anh Hùng Bồ Tát.

Và họ cho rằng hai loại này khác nhau hoàn toàn. Nhưng họ cũng không bao giờ biết rằng trên nguyên tắc: Muốn cho ai đó một cái gì thì mình phải biết rành rẽ hay có được món đó đã. Rõ hơn: khi đã giàu rồi thì mới cho $ người khác được. Khi đã chắc ăn là đã thành công trên con đường Phật pháp thì mới xuất hiện mà chỉ đường cho thiên hạ. Đó là việc rất đúng và đáng tán dương! Không có gì hổ thẹn cả. Rõ ràng khi phân tích câu trên: chúng ta thấy đây là lời nói thuần túy của một Học Giả.

(1) Vế thứ nhất. Quả vị A La Hán phá được Ngã chấp, thoát được luân hồi: OK, Đúng không thắc mắc

(2) Vế thứ hai. Nhưng còn chấp Pháp, nên sợ pháp: vế này hoàn toàn mâu thuẫn cho vế số (1).

Vì rằng: Họ đâu còn cái Bản Ngã nào nữa đâu mà bọn Học Giả cứ ghép tội cho họ (A La Hán) là Chấp với Sợ!!! Cái ý của câu này cứ thấy lập đi lập lại hoài trong các bài chú thích hay kinh sách Đại Thừa. Đúng là sự phá thúi của Học Giả. Tuy vậy họ cũng trợ duyên cho tụi mình nên thận trọng khi đọc kinh sách: Đừng quá dễ tin.

Hai Lúa.


 

570
0.083218097686768 sec