
155. Như Lai
Tập Tin V
Bài 155. Như Lai
Như Lai
TN: kể chuyện rằng: Chủ đề chính của bài giảng hôm đó: “Yếu chỉ của Phật pháp tức là tâm không phân biệt chia hai”. Sau buổi giảng TN ráng chen lấn bà con để được đảnh lễ và hỏi thầy một câu như vầy: “Nếu nói tâm không phân biệt chia hai thì đó là nhất tâm hay vô tâm?”.
HL: Nếu hỏi HL câu *tâm không phân biệt chia hai thì đó là nhất tâm hay vô tâm* Thì HL đệ sẽ trả lời:
Cái này chỉ mới một vế của Chơn Tâm mà thôi. Mình có thể gọi đó là chữ Tịch hay chữ Như. Còn một phần nữa mà rất ít ai đề cập đến: Đó là chữ Chiếu hay chữ Lai.
Dẫn chứng rằng: Có Thầy nói rằng: Người không tu thì chỉ có Lai mà không thể nào Như được.
Hàng Tiểu Thừa thì chỉ Như mà không thể nào Lai được. Chỉ có Phật là vừa có Như và cũng là vừa có Lai.
TN (kể tiếp): Thầy trụ trì chùa VN đứng gần đó bèn nói: “Đã nói tâm không chia hai thì sao còn phân biệt nhất tâm hay vô tâm”. Các anh chị nghĩ sao?
HL đệ nghĩ rằng: Dựa vào sự dẫn chứng trên: Vị Thầy này chỉ hiểu được khái niệm Như mà thôi còn sự diệu dụng của phần Lai thì mù.
KKT: Hì hì hì... Siêu! siêu! Sao lâu nay Huynh HL không còn “sản xuất” những phim loại này cho bà con thưởng thức?
Thân,
AP: Hello Huynh HL, vậy vừa không có Như và cũng là không có Lai thì là hạng nào?
HL: Chào Huynh AP cùng các Bạn, là cái nguy hiểm nhất: Là gỗ và đá.
Mến.
AP: Nên mới nói Thập Địa Bồ Tát thì có chướng ngại của Thập Địa Bồ Tát; Tứ Thiền như Huynh HL thì cũng có chướng ngại của Tứ Thiền môn... hén huynh HL?
HL: Huynh lại thấy đúng nữa rồi. Thật ra chướng ngại mà không hẳn là chướng ngại. Vì chỉ là vấn đề Phước Báu của hai bên, trong điều kiện dùng trí tuệ để chiếu rọi thì có những trở ngại sau đây:
Nghiệp Lực che khuất, do phước báu không đủ.
Dẫn chứng:
Chính Ngài Đại Trí Xá Lợi Phất lại đi khen Đề Bà Đạt Đa khi ông này mới phát tâm tu hành. (Đức Phật và Phật Pháp của Nãrada). Ngài ỷ y là ai cũng tâm lành như mình nên Ngài không dùng thần thông để kiểm tra diễn tiến trong việc tu hành của Đề Bà Đạt Đa. Cũng chính ngài Xá lợi Phất, vốn là Thầy của La Hầu La. Ngay khi La Hầu La đang nhập định về Tuệ Minh Sát, tức là câu: Thân này không phải là ta, linh hồn này không là của ta, tư tưởng kia không là của ta. Thì Ngài lại nói một cách khơi khơi (không quán chiếu coi học trò của mình đang tập cái gì): Ông nên quán hơi thở. Việc phát biểu lộn xộn này, làm Ngài La Hầu La nhà ta bối rối không biết phải nghe theo lời ai! Một bên là Đức Phật với phần quán chiếu về Minh Sát Tuệ, và một bên là Quán về hơi thở của Ngài Xá Lợi Phất.
Và tất nhiên mình nhận thấy rằng: Lỗi đầu tiên của Ngài Xá Lợi Phất là do Nghiệp ngăn che.
Lỗi thứ hai là do phước báu của... bọn mình! Hí Hí mà nhờ vào trở ngại nhỏ bé này mà bọn mình lại biết được sự ảnh hưởng về tâm lý ứng với từng đề mục nhập định (kasina) khác nhau.
AP: Để xem chuyện gì nhé, AP chép lại đoạn này trong kinh Duy Ma Cật: Phẩm Đệ Tử cho quý đạo hữu tự quán: Khi Phật sai ngài Tu Bồ Đề đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật, ngài không dám đi: Vì khi trước tôi đi khất thực, vô nhà ông Duy Ma Cật. Ông Duy Ma Cật đựng đầy bát cơm nói rằng: Thực với pháp bằng, pháp với thực bằng, khất thực như thế mới được lấy ăn, nếu Tu Bồ Đề nhập vào tà kiến, chẳng đến bờ kia với chúng ma và trần lao không khác, đối với tất cả chúng sinh có tâm oán hận, báng Phật phỉ pháp chẳng nhập chúng số (Tăng chúng) cuối cùng không được diệt độ. Nếu ông được như thế mới được lấy ăn.
Ngài Tu Bồ Đề nghe rồi sợ hãi muốn bỏ chạy, ông Duy Ma Cật nói: “Tu Bồ Đề cứ lấy ăn đừng sợ, nếu người huyễn hóa của Phật làm ra nói như thế ông có sợ không?”
Đáp: Không!
Ông Duy Ma Cật nói: “Tất cả ngôn thuyết đều là tướng huyễn hóa, người có trí không chấp trước văn tự, nên chẳng có sợ, tại sao vậy? - Văn tự tánh lìa, chẳng có văn tự tức là giải thoát”. Thứ nữa, tánh sẵn có, không thể nài ép đặt danh đề tự, chẳng phải sạch nhơ, phàm thánh, thiện ác v.v... vì nhiễm tương ưng với các pháp mà có tam giới. Nay như tâm nhơ sạch đối đãi đều dứt, chẳng trụ nơi ràng buộc hay giải thoát, không có tất cả tâm hữu vô nhị nguyên v.v... thì ở nơi sinh tử mà tâm vẫn tự tại, cứu cánh [lão KKT nghe nè] chẳng hòa hợp với tất cả pháp, không y trụ nơi nào [Huynh HL, Tứ thiền, Nhị thiền v.v..] nên chẳng có pháp nào ràng buộc mà thong dong đi ở vô ngại trong sinh tử như VÔ MÔN. (chỗ này cho ai tham công án Vô Môn). Thấy tánh, biết tánh thì được, nói tánh có biết có thấy tức là phỉ báng tánh. Tánh dụ cho bản lai diện mục, cho Phật. Nếu nay nói Phật nói, thấy, nghe, là có Như là có Lai v.v... sao lại thế được.
HL: Như vậy, khi nói về Phật thì ông Duy Ma Cật chỉ dùng khía cạnh Không hai của Chơn Tâm. Là một tình trạng biết rõ rằng một vấn đề đều có hai mặt của nó mà không hề bị dính mắc vào đó. Nhưng cũng có một cách khác để nói về Phật: là nói đến tính cách diệu dụng của Chơn Tâm: Cùng một lúc thể hiện hai pháp: Tịch và Chiếu, hay Như và Lai mà không hề bị chướng ngại. Dùng cách này Ngài có thể trả lời được hết tất cả những câu hỏi hóc búa. Vốn là cái gốc của Tam Tạng Kinh Điển.
Lại còn một cách khác nữa để nói về Phật là... thần thông. Cùng một lúc trong một lỗ chân lông có thể phóng cả nước lẫn lửa mà không chướng ngại.
Do vậy mà mạn đà la Phật Mẫu Chuẩn Đề mới có cách quán kỳ lạ là: Các chữ tự xoay trên chính nó theo chiều: Ngược chiều kim đồng hồ. Đồng thời cả câu chú lại quay trên một vòng tròn thuận theo chiều kim đồng hồ. Tất nhiên, để làm nỗi chuyện này thì tâm tu sĩ phải vào một tình trạng *Không Chấp phải cũng không chấp trái* thì mới làm được. Mà như vậy chỉ có ông Phật thì mới chơi được mà thôi! Vì vậy mà các Tổ mới đặt tên là: Phật Mẫu Chuẩn Đề (Mẹ của Phật hay đúng ra pháp quán (vision) dễ nói, rất chi là khó làm này sẽ giúp mình thành Phật).
Còn một cách khác nữa khi nói về Phật là tính cách Phủ Nhận Vấn Đề (Kinh Bát Nhã).
Còn một cách khác nữa là dùng cách phân tích rồi quy nạp một vấn đề để thấy rằng: Các Pháp đều Vô Ngã.
Còn một cách khác nữa để nói về ông Phật là: Cách thức Nhập Niết Bàn của Ngài.
Ngài dụng tâm lần lược nhập và xuất theo chiều thuận, từ Sơ Thiền tới Diệt Thọ Tưởng Định. Rồi sau đó Ngài lại dụng tâm xuất và nhập theo chiều ngược: Từ Diệt Thọ Tưởng Định lại trở về lại Sơ Thiền. Sau cùng Ngài lại lại dụng tâm theo chiều Thuận một lần nữa nhưng lần này chỉ tới Tứ Thiền và ngay nơi này: Ngài Nhập Diệt.
Như vậy khi bàn về Phật thì phải có cái nhìn Tả Pín Lù như trên thì mặc may khi đọc kinh Phật mới không bị rối trí.
Mến.
K: hi AP,
hí hí... thì AP SD cứ việc hỏi anh 2L hay bất cứ ông thầy nào cũng được mà... để coi bổn tâm có như lai hay không... từ tạo thiên lập địa là đã có nó rồi thì hỏi nó có như lai hay gì gì đó của AP SD hay của anh 2L không? Trả lời đi anh 2L....híhí
HL: Chào Huynh K và AP cùng các Bạn.
Kinh nghiệm bản thân của đệ thì: Trong Đạo Phật mà Huynh xác quyết cái này đúng, cái kia sai là... sai lầm lớn. Do vậy mà khi Huynh nhất định cho rằng: Chơn Tâm là như như bất động là cũng sai lầm luôn. Vì tất cả những lý luận như vậy đều là phiến diện, không tròn đầy và không viên mãn.
Ví như nếu gặp những người Bạn của đệ hồi lớp Tiểu học Thì Huynh sẽ nghe họ nói về đệ rằng: Đệ chỉ là một thằng ngọng, học dốt nhất lớp. Đối với họ: Đệ chỉ là một thằng lười, ăn thì nhiều, học thì dở.
Nếu Huynh gặp một người bạn của đệ vào thời thanh niên cỡ 16 tuổi thì sẽ nghe họ nói về đệ là người đầu tiên ôm đá ba lông (25kg) bơi qua bờ hồ Xuân Hương. Lần này khi nói về đệ thì họ chỉ biết có cái sức mạnh và sự liều lĩnh của đệ mà thôi.
Nếu Huynh gặp Anh Cương thì sẽ nghe Anh ấy nói về võ nghệ của đệ. Như vậy đối với Anh Cương: Đệ chỉ là một tên đánh võ.
Lại nữa, Huynh sẽ gặp những người lính trong toán họ sẽ nói về đệ là một tên không bao giờ biết sợ là gì! Và dĩ nhiên, tất cả những nhận xét trên của các Bạn đó đều là phiến diện, không đầy đủ về đệ.
Tương tự như vậy, nếu nói về Chơn tâm mà Huynh cứ nhất định cho nó là không có Như hay không có Lai thì cái đó cũng chỉ là một kết luận phiến diện, hay nếu xét kỹ hơn: Đó chỉ là một kết luận tạm thời của các Bậc Thầy và Tổ trong lúc bất đắc dĩ, hay tuỳ bệnh cho thuốc mà các Ngài cố nói ra.
Nói về:
1. Như: Thì đệ lại có kinh nghiệm rằng: Tui không ở đâu hết.
2. Còn Lai: Thì lại một kinh nghiệm nữa: Tui ở tất cả mọi nơi.
Khi các Tổ, Thầy nói:
*Vừa_không_ở_đâu_cả_mà_lại_vừa_ở_tất_cả_mọi_nơi, là một diễn tả khéo léo, trung thực và rất là bình đẳng của hai hiện tượng không thể tách rời được, đó là: Hiện tượng Vô Ngã và Trí Tuệ.
Mến.
K: Anh trả lời cho tuị em như vậy là theo cái nhìn và kinh nghiệm sống của anh thôi... cũng chưa chắc viên mãn (trúng hay sai)... híhí... cho em mạo muội nói như vậy... vì ở cõi đời này đâu có cái gì là nhất định và bất biến đâu anh....
HL: Vậy mới là thấy cái tiếu lâm của vấn đề.
Nguyên cả một đoạn lời khuyên của Huynh, đệ Như và Lai và thấy rằng Huynh chưa có kinh nghiệm một cái gì cả. Nên cuộc nói chuyện trở Vô Cùng và không ai có ích lợi. Khi nào Huynh đi tới, đi lui được như đệ mà Huynh còn tiếp tục nói được lời khuyến này thì lúc đó dù Huynh ở bất cứ chân trời góc biển nào, khi hay tin là đệ tam bộ nhất bái đi về hướng đó ngay để tìm Huynh học Đạo, không có lôi thôi gì cả.
Mến.
Võ Hiền: Thưa anh Hai Lúa cùng quý anh chị,
Ở đoạn này xin anh HL vui lòng nói rõ thêm một chút cho tôi được học. Khi nói “đi tới, đi lui” có phải anh muốn nói đến khả năng xuất hồn không? Nếu đúng như vậy thì theo kinh nghiệm của tôi khả năng này và trình độ hiểu biết Phật pháp cũng như đạo đức không liên hệ gì với nhau. Bản thân tôi cũng đã có rất nhiều ấn chứng tương tự nhưng vẫn thấy mình chẳng tiến hoá được đến đâu. Bằng chứng là thời gian qua tôi chỉ “dựa cột mà nghe”, chưa đóng góp được gì cho diễn đàn. Tôi rất thích những phần trình bày của anh Hai Lúa nhưng không đồng ý quan niệm tìm người biết “đi tới đi lui” để học đạo! Xin mạo muội bày tỏ để được Anh Hai Lúa cũng như quý vị khác chỉ điểm thêm giùm.
HL: Chào Huynh Hiền cùng các Bạn.
Đúng như là Huynh MQ đã nói trước: Đi tới đi lui ở đây ý là như vầy: Xuất Sơ Thiền nhập Nhị Thiền, xuất Nhị Thiền nhập Tam Thiền, xuất Tam Thiền nhập Tứ Thiền, xuất Tứ Thiền nhập Không Vô Biên Xứ, xuất Không Vô Biên Xứ nhập Thức Vô Biên Xứ, xuất Thức Vô Biên Xứ nhập Vô Sở Hữu Xứ, xuất Vô sở Hữu Xứ nhập Phi Phi Tưởng Xứ, xuất Phi Phi Tưởng Xứ nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
Tóm lại đệ tập vế 1 của Phật Thích Ca, khi Ngài nhập diệt. Phần này ghi rõ trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp của Ngài Nãrada. Như vậy không có chuyện xuất hồn, xuất vía trong đây.
Mến.
Hai Lúa.
TB: Cách này đọc thì chưa tới 5 phút nhưng làm thì cần rất nhiều yếu tố phụ như:
Giữ Giới Luật cho thật kiên cố
Kiểm tra tư tưởng chặt chẽ
Thiền Định.
Võ Hiền: Thưa anh Hai Lúa và quý anh chị,
Cám ơn anh HL đã sốt sắng giải thích và mong anh tha lỗi cho tôi đã hiểu lầm “đi tới đi lui” là xuất hồn! Tuy nhiên tôi còn thắc mắc anh HL xuất xứ này nhập xứ nọ bằng cách nào nếu không gọi đó là xuất hồn? Mong anh giúp thêm chi tiết.
Kính
HL: Chào Huynh cùng các Bạn.
Thế là câu chuyện trở nên lý thú rồi đây: Đây là dùng cái lực của Chánh Định để cộng hưởng với các thế giới trong Tam Thiên Đại Thiên Thế giới. Cũng như mình ở nhà mở radio bắt đài BBC nghe chơi. Nếu mình có thể bắt được thì mình Đâu_cần phải bay qua tận London để nghe chính mấy ông xướng ngôn viên đó nói đâu. Mà mình chỉ cần ngồi nhà, vặn đúng tầng số của nó là mình đã nghe được rồi.
Sau đây là những tầng số của các cõi trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Cách thức tạo tầng số:
- Với một sức tập trung tư tưởng thật là mạnh vào một điểm xuất hiện ngay đằng trước mặt tu sĩ cố gắng vẽ cho ra một hình ảnh mang tính chất Trung Tính mà Đức Phật đã soạn sẵn: Đất, Nước, Lửa, Gió. Hay dùng chữ cho nó Tây hơn là: Pathavi, Apo, Tejo, Vayo.
Đệ dùng đề mục lửa (tejo) để Nhập Chánh Định:
Đề mục xuất hiện 12 giây: Sơ Thiền
Đề mục xuất hiện 24 đến 40 giây: Nhị Thiền
Đề mục xuất hiện 40 đến 70 giây: Tam Thiền
Để vào Tứ Thiền, tu sĩ phải nâng cao hơn nữa mức độ Nhập Chánh Định của mình:
Sau đó lại áp dụng một kỹ thuật khác để nâng cao hơn nữa trình độ Nhập Định: Đệ dùng những hình ảnh của hòn bi có những màu sắc lần lượt là: Xanh da trời, Xanh lá cây (đọt chuối), Đỏ, Vàng và Trắng.
Kỹ thuật như sau:
Khởi sự quán (vẽ bằng tư tưởng cho ra hình ảnh của hòn bi to cỡ 3cm hay 1”). Sau khi hòn bi xuất hiện như thật đằng trước mặt thì đệ sơn nó thành màu Xanh da trời. Bước kế tiếp là tập trung tư tưởng vào trung tâm của hòn bi, việc này làm cho hòn bi nhỏ lại như hạt tiêu cỡ 2mm (1/8”).
Sau đó là lập đi lập lại hai động tác kỹ thuật trên nhưng lần này với những màu khác nhau và với trình tự như sau: Hòn bi màu Đỏ, rồi Xanh đọt chuối, Vàng rồi sau cùng là Trắng. Danh từ chuyên môn là: Thực hiện cho bằng được trình độ:
Tâm_Nhu_Nhuyễn_Dễ_Sữ_Dụng.
Với sự tập trung tư tưởng liên tục và mạnh mẽ này, bất chợt đệ có một cảm giác hụp xuống như khi máy bay bị gió xoáy hay gặp túi không khí loãng vậy. Và đề mục biến mất thay vào đó một khoảng không gian bao la rộng lớn xuất hiện trong cái thấy của đệ. Đó là cung trời Quang Quả Thiên của vùng trời Tứ Thiền....
Tất nhiên, còn rất nhiều Kỹ Thuật và mánh khóe để leo đến Diệt Thọ Tưởng Định. Đại để là như vậy, Huynh có thể đọc được ở cuốn Đức Phật và Phật Pháp của Nãrada. Hay Trung Bộ Kinh (Tập 3) của Thích Minh Châu.
Mến.
Hai Lúa.
TB: Như vậy cung cách này, tu sĩ không cần phải đi đâu cả mà chỉ cần tạo ra một tầng số để cộng hưởng với tầng số của các cõi ở Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Ngoài ra việc cộng hưởng bằng linh ảnh này và cùng lúc đó tu sĩ cũng hưởng ké hạnh phúc của các Chư Thiên ở các Cung trời đó. Cũng nên nhắc lại rằng khi tu sĩ dùng cách này và leo lên đến Diệt Thọ Tưởng Định hay còn gọi là *Hữu Dư Niết Bàn* thì mình cũng hưởng ké tình trạng chơn hạnh phúc của Chư Phật. Thế rồi rất là tự động, sau khi xuất định, tâm mình nó tự biết cảnh nào là Hạnh Phúc hơn cảnh nào liền, cái đó khỏi phải nói dông dài và phân tích lôi thôi.
Xin thưa: Không dễ đâu!
Wed, 21 Apr 1999 20:37:41
Chào Huynh Kiệt, Huynh Duy và các Bạn.
Tập mà êm xui thì là như đã nói trong bài trước.
Trích đoạn Đức Phật và Phật Pháp Chương 36 Con đường Niết Bàn (II) Tr. 546 đến 547 (sách của đệ). Tuy nhiên, hành giả có thể bị mười (10) đạo binh của Ma Vương tấn công như có ghi trong kinh Sutta Nipata, 10 đạo binh ấy là:
1. Nhục Dục (kama)
2. Nản Chí (arati)
3. Đói và Khát (khuppipasa)
4. Ái Dục (tanha)
5. Dã dượi hôn trầm (thinamiddha)
6. Sợ sệt (bhaya)
7. Hoài Nghi (vicikiccha)
8. Gièm pha và ngoan cố (makkha, thambha)
9. Thâu đoạt một cách bất chánh, tiếng tốt. danh vọng, những lời khen tặng và lợi lộc (labha, siloka, sakkara, micchayasa)
10. Và Tự Phụ và Khinh Miệt Kẻ Khác
(attukkamsanaparavambhana)
Vì như vậy mà Đức Phật có những lời khuyên như sau:
1. Cố tạo những tư tưởng tốt, trái nghịch với loại tư tưởng trở ngại. Như bị lòng sân làm trở ngại thì cố tạo tâm Từ.
2. Suy niệm về những hậu quả xấu có thể xảy ra. Như nghĩ rằng Sân Hận đưa đến tội lỗi, sát nhân v.v...
3. Không để ý, cố lãng quên những tư tưởng xấu ấy.
4. Đi dần ngược dòng tư tưởng, phăng lần lên, tìm hiểu do đâu tư tưởng xấu ấy phát sinh, và như vậy trong tiến trình ngược chiều ấy, hành giả quên dần điều xấu.
5. Gián tiếp vận dụng năng lực vật chất. Cũng giống như một người mạnh mẽ tráng kiện khắc phục một người khác, suy nhược yếu ớt, ta phải vận dụng sức lực của thể xác để chế ngự những tư tưởng xấu xa.
Đức Phật khuyên: Cắn chặc răng lại và ép lưỡi sát vào nóc vọng phía trên, hành giả vận dụng hết năng lực để kềm chế tâm và như vậy khi cắn răng lại và ép lưỡi sát phía trên, cưỡng bách và kềm chế tâm, những tư tưởng xấu xa và có hại sẽ suy nhược dần và tiêu tan. Do đó tâm sẽ lắng dịu, an trụ, thuần nhất và định.
Mến.
Chào huynh HL và các đạo hữu, Cám ơn huynh HL nhé, câu chuyện trở nên lý thú thật, và lần này có thêm tính sáng sủa và tính khoa học nữa. Tôi còn tin là phương pháp nầy cũng hiệu quả nữa, và lại dễ tập (?).
KKT: Dễ tập (?) nhưng thành công có dễ hay không lại là chuyện khác! Phải hỏi xem những vị tăng Theravada (thường tu tập Tứ Thiền, Tứ Định) có nhiều vị có kết quả không? Phải hỏi cả Huynh HL nữa, rằng từ lúc Huynh HL bắt đầu luyện tập cho tới khi vào được Tứ Thiền mất bao nhiêu thời gian? Còn cả yếu tố nhân duyên từ những kiếp xưa nữa, đâu ai giống ai!
Duy: Đề nghị Huynh KKT thử theo đó mà vào Tứ Thiền, rồi diễn giải thêm cho anh em.
Thân,
KKT: Trong một msg cách dây không lâu, tôi có gợi ý rằng vì vọng tưởng của chúng ta triền miên khởi, nên nói một cách logic KHÔNG CÁCH GÌ CHÚNG TA GIẢI THOÁT được! Khi chưa biết tu hành ta thường khởi ác niệm (và tạo ác nghiệp), biết tu hành rồi ta thay thế ác niệm bằng thiện niệm (và thiện nghiệp), nhưng vẫn chỉ là ý niệm mà thôi, và như vậy vậy trong cái Tàng Thức (store-consciousness) của chúng ta chỉ chứa đầy những chủng tử (ác hoặc thiện) chờ đủ nhân duyên để hiện hành! Đó là nghĩa “không cách gì giải thoát được!” (Sợi dây xích dù bằng sắt hay bằng vàng thì bản chất của nó cũng chỉ là... dây xích (trói buộc) mà thôi!). Nói cách khác, tất cả các cách tu hành của các bạn (bất luận cách nào) đều... KHÔNG GIẢI THOÁT!!!
Từ đó suy luận một cách logic thì chỉ có thể GIẢI THOÁT nếu chúng ta có một cách nào đó đốt hết hay đổ sạch tất cả những chủng tử chứa đựng trong cái Tàng Thức, đổ một lần (hay vài lần) cho sạch hết, không có chuyện từ từ! (Bởi từ từ thì trong khoảng thời gian đó chủng tử lại tiếp tục hiện hành!)
V.Hiền: Thưa anh HL và quý anh chị,
Tiếp theo phần trình bày của anh HL tôi xin phép nêu lên một vài nhận xét theo kinh nghiệm để mong anh HL cũng như quý anh chị giúp thêm ý kiến:
1. Ngoài phương pháp của anh HL tôi thấy còn có nhiều cách thức khác giúp thể nhập vào các cảnh giới vô hình. Có nơi dùng cách quán tưởng màu sắc, linh ảnh hay các đàn tràng (mandala), có nơi dùng mật chú (sau khi được quán đảnh hay truyền ấn khế). Tuy phương thức khác nhau tùy theo từng tông phái nhưng thể nghiệm (hay kết quả) như nhau. Người Mỹ dùng thôi miên đi ngược về quá khứ để tìm nguyên nhân của bệnh trạng (past life therapy) cũng tương tự như anh HL dùng Mandala của Ngài Văn Thù để soi căn cho cô Trang, biết được chỗ vướng mắc trong đường tu. Ông Edgar Caycee, một nhà huyền bí danh tiếng của Mỹ thì lại “cộng hưởng băng tầng” bằng cách nằm ngủ để soi căn trị liệu! Có hàng ngàn hồ sơ về công việc của ông hiện đang được lưu trữ ở Virginia Beach. Một nhà huyền học thuộc hạng “kỳ nhân dị sĩ” mà tôi có duyên tiếp xúc còn cho biết những phương thức kể trên là ký hiệu, là quy ước do tổ các tông phái thiết lập để chiêu cảm thần lực hải của chư Bồ Tát. Cho nên một khi được trao “ấn khế”, hiểu được nguyên lý của thần thông thì chỉ cần khởi tưởng là có ứng nghiệm, không qua các nghi quỷ hay kỹ thuật rườm rà. Việc này giống như chỉ tốn vài chục xu để được chở qua đò thay vì phải bỏ ra vài chục năm để tập khinh công.
2. Cảnh giới được thể nghiệm cũng khác nhau tuỳ theo từng tông phái. Đó cũng là những ký hiệu phát xuất từ phía vô hình, những thị hiện vừa với tầm tiếp thu của người phàm. Cho nên người Âu Mỹ sẽ thấy Chúa Giêsu trong khi linh ảnh người Á Châu tiếp nhận là Chư Phật... Chư vị vốn không tướng nên thị hiện có tính cách quyền biến để chuyển thông điệp dễ hiểu đến chúng sanh. Thị hiện của Đức Quán Thế Âm là người nữ đối với Trung Hoa, Việt Nam có lẽ vì chúng ta mến mẹ hơn cha, và Ngài đến với Tây Tạng, Ấn độ với thân Nam (Avalokitesvara) vì họ thích có người cha đầy uy quyền bảo bọc cho gia đình. Cảnh giới thể nhập chắc chắn không phải là nơi trú ngụ của chư vị nhưng không hư huyễn như người ta nghĩ vì đó cũng là một lối thị hiện khác có tính cách biểu tượng để nhắn nhủ điều gì.
Thưa quý anh chị, những nhận xét trên rút từ kinh nghiệm bản thân sau khi tập tành theo một số cách thức khác nhau. Tôi rất nhạy cảm với huyền bí nên tập bộ môn nào cũng có chứng nghiệm ít nhiều. Gia đình và bạn hữu cho rằng tôi nhẹ bóng vía nên cách đây nửa năm tôi có nêu câu hỏi “Vía là gì” và được quý anh chị trên diễn đàn giúp đầy đủ dữ kiện. Cũng nhờ có chứng nghiệm nên tôi nhận ra được trình độ tâm linh và khả năng thần biến không phải lúc nào cũng đi đôi với nhau. Những khả năng này do Thần linh các đấng hỗ trợ (không do tập luyện mà có) để hành giả củng cố đức tin, có thêm phương tiện giúp người ngõ hầu lập công bồi đức. Ngoài ra hành giả vẫn phải đọc sách, tu sửa, học hỏi với các Thiện (và Ác!) tri Thức mới mong tiến hoá. Có lượng giá những hiện tượng huyền bí đúng mức mới không lọt vào tay 10 đạo quân của Ma Vương hay làm mồi cho các giống ma được Đức Phật liệt kê trong phần “Khai thị Ngũ ấm ma” của kinh Lăng nghiêm.
Kính chào
HL: Huynh lại ghi như sau:
Những khả năng này do Thần linh các đấng hỗ trợ (không do tập luyện mà có) để hành giả củng cố đức tin, có thêm phương tiện giúp người ngõ hầu lập công bồi đức.
Suy nghĩ một chút xíu, Huynh nghe nói lại như vậy, thì đệ lại suy nghĩ như sau: Nếu không do tập luyện mà có thì mấy ông Thần Linh đó do đâu mà họ lại có những khả năng này? Kinh nghiệm của đệ là những thần thông mà tu sĩ có được là do ba (3) nguyên nhân này mà ra:
1. Kiểm soát tư tưởng liên tục.
2. Giữ Giới Luật kiên cố.
3. Thiền Định.
Ngoài ba nguyên nhân trên, mà vẫn có, thì chỉ lọt vào ba trường hợp sau đây:
1. Bị các điện thần nhân nhập (Trị liệu: Ăn bí rợ cho nhiều vào (cỡ 3 tháng) rồi tập: Nó quật, hành cho một trận thừa chết, thiếu sống rồi... hết). Thường gặp trong một số pháp môn: Ngũ Hành, Năm Ông, Vạn Thiên Giới Linh sau này đổi tên là Tâm Linh. Và một số pháp môn có câu nguyện đại ý như sau: Nếu phạm giới thì: Con Trai bị mù, con gái bị điên.
2. Thiên Ma cho Thấy (Trị Liệu: Chỉ nói việc mình làm và chỉ làm việc mình nói, Niệm câu: Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát, người mà bị Thiên Ma cho thấy, thì lại chúa ghét câu này.
3. Nhân quả tu hành của tiền kiếp.
kiet: hi anh 2l và cá bạn,
Đề mục xuất hiện 12 giây: Sơ Thiền
Đề mục xuất hiện 24 đến 40 giây: Nhị Thiền
Đề mục xuất hiện 40 đến 70 giây: Tam Thiền.....
Anh 2L lấy mấy con số này ở đâu vậy cà? hay là anh lấy từ kinh nghiệm (bản thân) bỏ phim vô rồi đợi cho nóng đầu máy để chiếu... hahaha... Xin anh trổ nghề một chút cho đàn em thấy tuyệt kỹ đi đại ca... Thiệt đó, không có xtmtt đâu nào... hahaha
HL: Chào Huynh và các Bạn.
Mấy con số này đệ lấy và thu nhập kinh nghiệm của đệ vài ba người Bạn học rất dốt (chỉ có cô Trang và Thầy Giáo Thái, người mà Huynh đã gặp là học giả thôi) nhưng lại thích làm. Với tính tình mộc mạc của người nhà quê, họ tổng kết kinh nghiệm rồi với... bàn tay mở ra hoàn toàn (ý là không giấu nghề đó mà), mà đệ may mắn có mấy con số này. Còn những mánh khoé thì có một số người cũng tu hành đâu đó, họ thấy đệ loay hoay hoài mà làm không ra. Nên họ xuất hiện và chỉ cho đệ biết.
- Người mà chỉ cho đệ nhiều nhất lại là Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Người mà dạy đệ không được này nọ lại là Di Lặc Bồ Tát.
- Người mà nhắc lại chuyện xưa tích cũ, chiếu phim, kể chuyện hư cấu nhiều nhất lại là Ông Thầy ở Chùa Đậu.
- Và tất nhiên, người mà xấu hổ nhiều nhất lại là... đệ.
Mến.
K: Làm thế nào mà anh biết các vị ấy không phải là Ma vương hiện hình để dẫn anh đi vào cõi.... của nó vì phép tắc của tụi nó cũng cao lắm đó nghen… hahaha “anh có nghe câu: Thấy Phật chém Phật thấy ma chém ma” ở trong kinh Thủ Lăng Nghiêm chưa? hay là anh sẽ nói kinh này viết sai nữa... hahaha. Nói tóm lại em muốn biết (Hai Lúa Đại ca) khi anh ngồi chơi...(Thiền) kiểu của anh thì làm sao anh có thể quả quyết và xác định được những vị ấy là 100 thứ thiệt chứ không phải đồ dỏm của ma vương hay Thiên ma gửi đến để quấy nhiễu hay dạy anh theo con đường của họ trong lúc anh tanh hù... hahaha
Mến
ps: anh đừng có bành trướng thêm cái sân hoa lư nghen, nếu không em sẽ lấy cái quạt Tu di của KLĐT ra xài nữa à… hahaha
HL: Hay quá, là hay!...
Huynh K lại hỏi đến phương pháp mổ óc rồi!
Như vậy, tu tập cho riêng mình thì có khi cũng đã bở hơi tay, nổ đom đóm con mắt. Bi giờ lại bày đặc đi rủ wến người ta theo con đường mình thì lớn chuyện rồi đây. Do vậy mới có rất nhiều cung cách tập trung tư tưởng để cộng hưởng với những Pháp Thân. Những pháp thân vốn chỉ là một hình ảnh tư tưởng tổng kết tất cả các hành động của rất nhiều chúng hữu tình, nói như vậy để biết rằng: Có rất nhiều dạng Pháp Thân ứng với từng cách tu một như: (Đạo Ma, Đạo Quỷ, Đạo Thần, Đạo Tiên, Đạo Chư Thiên....)
Nhưng riêng Đạo Phật thì những Pháp Thân này lại ngồi hoặc đứng trên hoa sen đó là điểm rất đặc biệt. Về điểm này, bên Ấn Độ Giáo cũng có, nhưng không có nhiều như bên Phật Giáo. Thường thì các Pháp Thân xuất hiện theo trình tự Căn Bản Giáo lý của Phật Pháp rồi mới tùy theo vấn đề lớn hay nhỏ mà mình sẽ có một Ông Phật hay một ông Bồ Tát ngồi/đứng trên đó.
Thế nào là sự xuất hiện theo trình tự Căn Bản Giáo Lý của Phật Giáo: Căn Bản Giáo Lý của Phật Pháp là: Ngũ Uẩn Giai Không và Bát Chánh Đạo (Cái này áp dụng cho tất cả các Pháp Môn thuộc Tiểu/Trung/Đại/Tối Thượng/Phật Thừa).
Do vậy mà hình hoa sen năm (5) cánh sẽ xuất hiện trước tiên: lần đầu tiên pháp hoa này xuất hiện, đệ tưởng là nải chuối sứ với 5 trái mập mạp màu vàng. Hí Hí. Khi hoa sen xuất hiện rõ ràng đằng trước mặt, tư tưởng sau đây lại xuyên qua từ bán cầu Phải sang bán cầu Trái não bộ của đệ như sau: Ngũ Uẩn Giai Không.
Đệ vẫn một mực giữ nải chuối 5 trái này và thấy một hình ảnh của ai đó ngồi trên hoa sen, tư thế ngồi là hai đầu gối giáp khít mí hai cánh hoa bìa (mà lúc này đệ chỉ có thấy có nữa cánh thôi), Ngài ngồi vừa khít trên đỉnh các cánh hoa. Tư tưởng sau đây lại tới một lần xuyên qua đầu đệ một cách đặc biệt như trên: Độ Nhất Thế Khổ Ách. Một nỗi vui mừng ngay ngực của đệ nở bung ra như một cái hoa và niềm vui chan hoà và tuôn trào ra toàn thân của đệ, Tư tưởng lại xuất hiện một lần nữa: Với bi nguyện tròn đầy tôi, Maha Ca Diếp, sẽ chỉ tiếp cho ông về phép quán Vô Thường. Tất nhiên là còn nhiều chuyện nữa, nhưng lại thuộc về riêng biệt nên đệ có kể ra đây cũng không có ích lợi.
Lần đó là lần đầu tiên, Ngài Maha Ca Diếp xuất hiện chỉ cho đệ cách tập khi đệ trực vào buổi trưa tại Trạm y tế phường 13 Đà Lạt, trình độ lúc đó: Tứ Thiền Hữu Sắc.
Sau này đệ gặp nhiều pháp thân rất là ngầu như Ngài Vajra Agni (Kim Cang Phun Lửa, chuyên khoa chơi đẹp với Thiên Ma), Ngài chỉ cho đệ 7 chiêu hộ thân rất là ngầu để chuẩn bị vào đàn Pháp Ngũ Phật Trí. Sau đó là Ngài Văn Thù trực tiếp chỉ đệ nhiều chuyện nữa. Cũng do cái tật rắn mắt nên có một lần đệ mò ra sau ổng để coi coi có cái gì lạ không? hí hí.
Ổng vui vẻ thần giao cách cảm cho đệ hiểu răng: Hoa này nhìn trực diện thì có năm cánh tượng trưng cho tâm thức của Hành Giả đã chứng và đắc trình độ Ngũ Uẩn Giai Không, vì là cái nhìn ngang nên: Mọi Pháp đều bình đẳng.
Nếu nhìn từ trên xuống, vừa nói tới đây là ổng nâng đệ (đúng hơn là cái thấy của đệ) lên cao và khi nhìn từ trên xuống thì đệ lại thấy, cũng ổng ngồi trong một cái hoa gồm tám (8) cánh. Ổng nói tiếp đó là sự hiểu rõ và thực hành xong Bát Chánh Đạo của hành giả. Và vì là cái nhìn từ trên xuống nên đây là con đường đúng đắn để thăng hoa của các chúng hữu tình.
Đệ bàng hoàng vì bài pháp ngắn gọn và thuộc loại *Bất Lập Văn Tự* mà trong đó mọi động tác đều có ý nghĩa này. Giờ này, nhân câu hỏi quá hay của Huynh K, mà đệ vẫn còn cảm nhận được cái đã của nó khi trình bày lại.
Xin thành thật cám ơn Huynh K cùng các Bạn.
Mến.
Hai Lúa.
TB: Tất nhiên nếu Pháp Thân xuất hiện theo đúng y chang trình tự này thì không có kẽ hở để Thiên Ma vào. Huynh và các Bạn muốn nghe dựa vào đâu mà các Pháp Thân lại xuất hiện như vậy không?
K: Làm sao mình biết đó là Ma hay là Đồ Thiệt?
HL: Dễ thôi: Mã tầm Mã, Ngưu tầm Ngưu mà.
Khi mình là Ma thì nó là Ma!
Khi đó mình chạy theo em út, thả dê, chơi bài, massage, chôm chỉa, nói xạo, không có làm mà nói có làm, không biết mà nói biết, không rõ mà cứ chỉ... mà nó vẫn hiện ra thì đích thị đó là Ma.
Như vậy khi nào mình là đồ Thiệt thì nó là đồ Thiệt.
Có nghĩa là:
Giữ Giới Luật kiên cố.
Kiểm tra tư tưởng liên tục.
Thiền Định.
Không có em út, không có massage, không có đánh giá quá mức tình trạng chứng đắc của mình...
Câu hay nhất là: Lở cái Chân Lý theo cái kiểu đó nó sai thì sao? Cái này đệ chưa thấy nó sai nên chưa biết trả lời ra sao đây? Khi nào nó sai thì đệ lại đi tìm cách hay hơn chăng?
Mến.
KKT: Nói tóm tắt, cái tư tưởng xuyên qua từ bán cầu Phải sang bán cầu Trái não bộ của Huynh (trí tuệ xẹt qua xẹt lại! hí hí...) cho phép Huynh hiểu được bất cứ hiện tượng (hay hình ảnh) nào mà Huynh thấy? Đúng không? Vậy câu hỏi đặt ra là: Làm sao mà Huynh lại biết được rằng cái tư tưởng đó là đúng? Nghĩa là cái gì khiến Huynh dám chắc rằng cái tư tưởng đó là Chân Lý?
HL: Chào Huynh KKT và các Bạn.
Có ba (3) hiện tượng phát sinh âm thanh:
1. Cái tự nói tự cười trong đầu mình là cái tư tưởng thường tình của mình hàng ngày, chuyện này ai cũng biết. Nó có khi trúng, có khi không, bất thường, thường thì nó dựa vào dữ kiện đầu tiên để suy đoán ra chuyện kế tiếp. Như vậy Tư Duy ở đây là chính.
2. Cái tự nói tự cười xuất phát Từ_Phía_Ngoài_Vào đằng_sau_ót hay_chỉ_một_bên_lỗ_tai hoặc là
*ngay_trên_Đỉnh_Đầu là tiếng nói của các điện thần nhân. Thường gọi là Điển. Hiện tượng rất phổ thông cho tất cả các phương pháp tập luyện của Thần Quyền, khai mở những huyệt đạo trong lòng bàn tay (huyệt Lao Cung), hay trên đỉnh đầu (huyệt Bách Hội) như Ngũ Hành, Lục Tổ, Phật Quyền, Vạn Thiên Giới Linh, Năm Ông. Thiên Linh Cái, Lên đồng, luyện và đeo dây Cà Tha... Nó có tính cách sai khiến, áp đặt và thuyết pháp theo kiểu: Có Văn mà không có Nghĩa. Có nghĩa là họ nói rất là khơi khơi hay rất là trừu tượng. Không có gì là *Khai Thị* theo đúng nghĩa của Phật Pháp.
3. Cái tự nói tự cười xuyên từ Bán cầu phải sang bán cầu trái là cái Tịch Chiếu hay là cái diệu dụng của Chơn Tâm. Nó có tính cách khai thị và nói rất là rõ ràng, khúc chiết, không có chuyện trừu tượng. Khi nó nói ra thì mình thấy là không trật vào đâu được! Nó là Quả của Chánh Định và của Tâm Vô Trụ.
Hầu hết trong tuần vừa qua, khởi từ câu hỏi của Huynh AP về Kinh Duy Ma Cật, sau đó đến Huynh K và ngay cả câu này của Huynh KKT là những câu hỏi mà tự đệ không thể trả lời được. Đệ phải dùng cái Tịch Chiếu này để trả lời. Do vậy mà đệ có cái suy nghĩ là: Nó là cái gốc của nền Minh Triết nói chung hay riêng trong Phật Giáo: Nó lại là cái gốc của Tam Tạng Kinh Điển. Các Tổ, Thầy muốn kiểm tra chuyện gì hay phân tích một điều chi: Họ phải vào đây, họ mới nói một cách Chánh Ngữ và Chánh Pháp được. Trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp có đề cập đến chuyện này trong những ngày đầu tiên mà Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Chương 4 (Sau Khi Thành Đạo). Quả thật, các Chân Lý phát hiện hiển nhiên trước bậc thánh nhân đã có cố gắng và có thiền định, bao nhiêu hoài nghi đều tiêu tan vì vị nầy đã thấu triệt Chơn Lý và các nguyên nhân.
Trong Chương 5 (Cung Thỉnh Đức Phật Truyền Bá Giáo Pháp) Tr. 76. Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài:
“Hay Ta hãy tôn trọng và sùng bái chính cái Giáo Pháp mà ta đã chứng Ngộ!”
Đoạn (Cung Thỉnh Truyền Bá Giáo Pháp) (tr. 78)
Ngài đi từ gốc cây Rajayatana đến gốc cây Ajapala. Lúc ngồi Trầm tư, những tư tưởng sau đây phát sanh:
“Giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị chỉ bậc thiện trí mới thấu hiểu.” Chúng sanh còn luyến ái trong nhục dục ngũ trần. Lý nhân quả tương quan, “tuỳ thuộc phát sinh” là một đề mục rất khó lãnh hội.
Và Niết Bàn -- Sự Chấm Dứt Mọi Hiện Tượng Phát Sanh Có Điều Kiện (hữu vi), Sự Từ Bỏ Mọi Khát Vọng, Sự Tiêu Diệt Mọi Tham Ái, Sự Không Luyến Ái Và Sự Chấm Dứt -- cũng là một vấn đề không phải dễ lãnh hội. Nếu Như Lai truyền đạt giáo pháp ấy, kẻ khác ắt không thể hiểu được. Thật là phí công vô ích, thật là phí công vô ích.
Mến.
KKT: Như vậy muốn có câu trả lời Huynh phải NHẬP ĐỊNH (ngồi Thiền) mới có cái *xẹt qua xẹt lại* này? Có nghĩa là nếu đang đối thoại trực tiếp với ai (mặt đối mặt nói chuyện Đạo chẳng hạn) thì Huynh không sử dụng được (vì lúc đó đâu có nhập định!), phải không?
HL: Chào Huynh KKT và các Bạn.
Muốn xẹt qua xẹt lại thì phải xin phép người Bạn Đạo là đệ sẽ dùng thần thông để coi, mà người bạn đó đồng ý thì đệ mới có thể làm được. Còn người bạn đó không chấp nhận thì đệ không làm được. Vì đó là quyền tự do của đối tượng. Hơn ai hết, người nói về Giải Thoát thì phải tôn trọng tự do 100. Huynh lại đề cập đến chuyện Nhập Định, đệ nhập rất nhanh chưa tới 10 phút là tới Tứ Thiền rồi. Tuy vậy thì kỷ lục vẫn là Cô Trang ở VN, vừa dứt lời là vào ngay được liền, cũng y như thằng oắt tỳ của đệ ở đây vậy (mới cách đây vài tuần thôi).
Duy: Thân gởi anh HL,
Xin được hỏi anh HL hai câu hỏi:
1. Có người chỉ mất vài phút là vào được cận định. Từ đó vào Sơ Thiền bao lâu?
HL: Chào Huynh Duy cùng các Bạn.
Tuy là một chuỗi trong tiến trình tu hành kiểm soát tư tưởng, nhưng: Cận định và Chánh Định là hai ngôn ngữ tâm linh khác nhau: Một bên là thư giãn và kiểm soát thô tâm (không có cách gì kiểm soát được vi tế tâm). Một bên là bắt tâm thức hoạt động theo một chương trình định sẵn: Quán một đề mục để nhập vào chánh định. Cuốn Đức Phật và Phật Pháp ghi lại rằng: Chương 36 (Con Đường Niết Bàn II) trang 540: Định (samadhi) là giữ tâm an trụ vào một điểm, là gom tâm vào một đề mục, và hoàn toàn không hay biết gì khác ngoài đề mục ấy.
Như vậy, như Huynh nói: Chỉ cần vài phút là vào được Cận Định là một nhận xét chính xác. Còn muốn vào được Chánh định như Sơ Thiền thì vài tuần cho đến vài tháng thì mới vào được.
Duy: Huynh có cho là những gì đạo hữu TD hay kể (đạt vô niệm, v.v..) chỉ là mức cận định không? Xin nói ít thôi vùa đủ chọc cho đạo hữu TD múa gậy.
HL: Như định nghĩa trên: Quả đúng là vậy, cái mà Huynh TD thường nói chỉ ở mức độ Cận Định. Vì chỉ lo kiểm soát cái tự nói tự cười trong đầu mà thôi, Huynh TD hoàn toàn không biết hay không đếm xỉa đến cơ chế, vận hành của một tư tưởng. Tư tưởng gồm hai phần: Phần Thô và phần Vi Tế. Vi Tế Tâm là gốc của Thô Tâm.
Cũng giống như cỏ dại gồm hai phần: Phần lộ thiên mà ai cũng thấy được đó là phần lá, cọng và bông. Phần này có thể ví như Thô Tâm. Còn một phần nữa là mà không ai thấy, đó là phần rễ nằm chìm dưới đất. Phần này tất nhiên có thể ví như Vi Tế Tâm. Chính phần rễ này lại nuôi sống cây cỏ dại. Như vậy có hai cách để làm sạch cỏ:
1. Là cắt phần lộ thiên.
2. Là nhổ, bứng bật tận gốc.
Tụi mình thấy ngay rằng: Lâu lâu lại có Huynh phát biểu một câu như sau: Nhưng mà nó ngưng được bao lâu đó là vấn đề. Tất nhiên, cách này sẽ đi vào lối cũ: Đứa bé tám tuổi đã biết (thế nào là tâm thanh tịnh) nhưng ông già 80 lại làm chưa xong. Như vậy cách của Huynh TD là cắt cỏ chớ không phải nhổ cỏ.
Mến.
KKT: Huynh hiểu lầm câu hỏi của đệ rồi. Đệ muốn hỏi rằng thí dụ Huynh đang đàm đạo về chuyện Đạo với một người hoặc nhiều người, trong khi trò chuyện như vậy, vì là chuyện Đạo, nên phải sử dụng trí tuệ. Mà vì muốn sử dụng cái trí tuệ xẹt qua xẹt lại đó, Huynh phải nhập định (mất khoảng 10 phút để vào Tứ Thiền như trường hợp của Huynh) thì mới dùng được! Nói cách khác, trong khi đang đàm đạo đó, Huynh chỉ dùng được cái trí bình thường? (như tất cả mọi người)
HL: Đúng vậy, nhưng phần trả lời trên lại nhấn mạnh đến chuyện là khi có cái xẹt qua xẹt lại này thì không phải muốn đâm bị gạo, thọc bị lúa nào cũng là được đâu. Vì lạm dụng là nó mất.
KKT: Lấy ví dụ Huynh phải thuyết pháp (ví dụ thôi) và vì đang nói chuyện như vậy nên Huynh không thể nào nhập định được, và như vậy không sử dụng được cái xẹt qua xẹt lại. Có nghĩa là những gì Huynh nói chỉ xuất phát từ cái *trí bình thường* như của mọi người? Đúng không? Nếu như vậy thì những gì mình nói ra đó đâu có dấu tích gì là trí tuệ, là sáng suốt? Huynh nghĩ sao?
HL: Chào Huynh KKT cùng các Bạn.
Đệ mà trình bày cái gì cho Bạn Bè nghe thì đệ nhập định kỹ lắm. Và khi đệ vừa nói là đệ vừa nhập vào phần nông của Tứ Thiền để dùng ba luân xa Ajna, Anahata và Manipura để kiểm tra liền tức khắc mức độ hiểu biết của Bạn Bè. Có nhiều lúc, mệt quá, đệ cũng không thấy rõ lắm.
Như vậy nói theo cách này thì cũng có một phần trí tuệ, tuy vậy, dù: Cự Môn ở Miếu Địa đi nữa (Cự Môn, là sao ăn nói trong Tử Vi, miếu địa là chỗ rất tốt) thì cũng không thể nào diễn tả được hết đúng 100 cái trí tuệ xẹt qua xẹt lại. Tuy là nói rõ như vậy nhưng vẫn cứ ấm ức vì phạm vi giới hạn của ngôn từ. Cái kỹ thuật này là do Ngài Văn Thù chỉ.
Mến.
MQ: Sinh lý học nói rằng bán cầu não bên phải là Hoạt Động, còn bán cầu não bên trái là Tâm Linh, nên từ phải sang trái thì hợp lý lắm, “vật chất có trước, tư tưởng có sau” cho đúng biện chứng duy vật; nhưng khi mình nói nó là Chân Lý, là “không trật vào đâu được” thì mình quên mất là hiện tượng đó chỉ xảy ra trong bán cầu não của mình, còn khi nó xảy ra trong bán cầu não người khác thì cái Chân Lý của họ khó thể nào giống hệt như mình, vì vậy mà Đức Phật mới có tám vạn bốn ngàn pháp môn “không trật vào đâu được”. Còn “ngũ uẩn giai không” mà đi với “bát chánh đạo” thì là oxymoron.
Trân trọng,
HL: Chào Huynh MQ cùng các Bạn.
Về việc Huynh chỉ dạy thêm làm đệ cảm động, hoan nghênh và ghi nhận. Trong đoạn đường nhiều ổ gà này: Đệ chỉ nói việc mình làm và làm việc mình nói chớ không thêm không bớt. Vì đệ đã thấy nhiều bậc tiền bối bị trật đường rầy cũng vì cái tội bốc quá. Việc đệ trình bày ở đây không hề có tính cách thuyết phục hay chế ra một pháp môn mới nào cả, mà chỉ là kinh nghiệm có và đã xảy ra trên con đường dài tu hành.
Tất nhiên, vì thiếu hoàn toàn sách vở vào cái thời đó (1983) nên đệ có những nhận xét rất là ngộ nghĩnh. Đệ chỉ muốn rằng trên diễn đàn này các Bạn cứ nói ra như cái chợ vậy và sẽ có người đi lựa hàng hóa. Trong cái chợ Tâm Linh này ước mong rằng tụi mình sẽ chọn được những món hàng vừa bụng nhưng không quá tồi để rồi phải uổng công.
Mến.
Hai Lúa.