44. Cà xịch cà đụi

44. Cà xịch cà đụi

Tập Tin / Tập Tin V    Xem 954     16 năm trước

Tập Tin V

Bài 44. Cà xịch cà đụi

Nghe chuyển âm:

Cà xịch cà đụi

Chào quý Bạn.

Tại sao lại có tình trạng tu hành cà xịch cà đụi, khi được khi không? Trong Duy Thức Học có diễn tả tâm trạng cà xịch cà đụi này không? Và có cách nào, chiến thuật, chiến lượt nào để đối phó tình trạng thông thường này không? Nếu không, thì quý Bạn, quý Huynh có kinh nghiệm gì để bớt bị cà xịch cà đụi không? Nhờ Huynh Bình đăng liên tiếp mấy bài Té cây và *Hái thuốc* nên đệ lại hứng chí mà viết tiếp về cái tình trạng cà xịch cà đụi thường gặp trong lúc tu hành.

Trong Abhidhammatthasangaha có nói lướt qua tình trạng đó trong câu:

[...] chìm xuống Hữu Phần (Bhavanga) được đọc ở rải rác trong đoạn trình bày về Lộ trình của một tư tưởng. Như đoạn sau đây: (Sách trên của TT Thích Minh Châu tập 1, tr 90, dòng 9).

[...]

Tâm trạng thụ động của tâm, khi được trôi chảy không bị một kích thích nào, được gọi là Bhavanga hay hữu phần. Các tâm khởi lên trên mặt Bhavanga rồi chìm xuống Bhavanga. Thông thường, chúng ta không thể giữ mải một tâm, không cho chìm xuống Bhavanga. Một tâm có thể sánh như một làn sóng nổi lên trên mặt biển, tồn tại trong một thời gian rồi chìm xuống để làm nổi dậy một làn sóng khác, rồi đến một làn sóng khác. Cũng như vậy, một tâm khởi lên trên mặt Bhavanga, được nhận thức rồi tâm ấy chìm xuống để làm khởi dậy một tâm khác và một tâm khác... Tâm có đời sống thông thường là 17 sát na (cittakhana).

[...]

Lời bàn:

Thì ra tất cả công phu đều dựa vào chìa khóa này.

Công phu... ăn trộm:

Tâm động do ý thích ăn trộm nổi lên và chìm xuống luồng Bhavanga, làm môi trường hay chất xúc tác cho một tâm kế tiếp, càng loạn hơn là: đi chôm chỉa... hí hí. Đức Phật mà nghe đệ xé rào tán láo kiểu này là nhỏm đít khỏi hoa sen là cái chắc.

Tương tự như vậy: Công phu Uýnh lộn, Công phu Nói láo, Công phu... tóm lại là tất cả các công phu thuộc loại phá giới. Chúng có đặc điểm là: Do trụ trên Loạn nên kết quả là Động toàn bộ.

Ghi chú:

Biểu hiện luồng Bhavanga qua Hào Quang: Với con mắt nhà nghề, khi nhìn vào hào quang của bất cứ ai, nhìn ngay vào cái viền thì sẽ thấy hàng tỷ tỷ đóm sáng đủ thứ màu chớp tắt liên tục (y như tinh tú trên trời, nhưng nhiều màu sắc hơn) đó là luồng Bavangha do tác động của những loạn tâm mà gây ra hiện tượng trên. Tất nhiên, căn cứ vào màu sắc của luồng bhavanga: Màu càng Đục, càng Dơ thì Tâm người đó càng loạn và càng động, càng bẩn thỉu. Cho dù họ bận đeo bất cứ quốc hiệu, áo mủ, huân chương, huy hiệu gì gì đi nữa: Nếu luồng Bhavanga chưa sạch thì họ vẫn đương nhiên còn luân hồi.

(còn tiếp)

Mến.

Dựa trên vấn đề xuất hiện và chìm xuống lại luồng Bavangha của một tư tưởng, tụi mình thấy: Một tư tưởng có 2 chiều tác động:

1. Nhiễu loạn Chơn Tâm (khi trồi lên khỏi luồng Bavangha)

2. Tạo thành cá tính đặc biệt trên từng cá nhân (khi nó chìm xuống trở lại xuống luồng Bavangha), và nó lưu lại một vết nhỏ (điểm sáng màu) trên luồng Bavangha.

Rõ ràng hơn: Khi một tư tưởng *Nói Xạo vụt lên khỏi luồng Bavangha, người nhìn được hào quang sẽ thấy một màu xanh cỏ úa vụt loé sáng trên đỉnh hào quang. Khi tư tưởng đó hết thì nó teo lại và ngủ ngầm với một đóm nhỏ có màu xanh cỏ úa. Căn cứ vào luồng Bavangha, một thiền sư có thể nhìn ra được sở trường hay sở đoản (Cá Tánh) của một cá nhân. Do vậy mà các Ngài có thể khuyên mình nên coi chừng và giữ những giới luật đặc biệt nào đó để tiến tu. Rõ ràng hơn:

1. Khi nhìn vào luồng Bavangha và các Ngài lại thấy có màu nâu xẩm, dơ xuất hiện ở vùng hông của cá nhân nào đó thì trước khi trao truyền pháp môn chính để vào Niết Bàn: Thầy sẽ trao truyền phương pháp Quán Xác Chết để kềm hãm dục vọng đang ngủ ngầm thể hiện qua những màu sắc vừa kể trên ở vùng eo.

2. Nếu các Ngài khi thấy màu xám xuất hiện từng đám, nhiều nơi trên luồng Bavangha thì lần này các Ngài sẽ đề nghị sám hối trước khi vào pháp môn chính vì Màu Xám nhiều là biểu hiện của Nghiệp Sát

3. Nếu các Ngài lại thấy nhiều đám màu nâu sậm (như gan bầm) xuất hiện rải rác khắp nơi trên luồng Bavangha, các Ngài lại đề nghị sống riêng biệt ít tiếp xúc với những bạn bè vì bản tính hay lợi dụng, tham lam hiện đang còn ngủ ngầm trên luồng Bavangha.... Như vậy mới gọi là “Biết Người Biết Ta, Trăm Trận Trăm Thắng” được.

(Còn tiếp)

Mến.

Qua bài trước, cá tánh đã được các Ngài phân tích và cho giữ giới, để tạm thời ngăn cản bớt những ác duyên. Nay lại bàn tiếp về các chiến thuật, chiến lược. Cùng với những phát kiến về sự tác dụng 2 chiều của một tư tưởng, Đức Phật sẽ đi đến kết luận rằng: Bước đầu tiên là cần có một tư tưởng Trung Tính: Nếu mình tạo một tư tưởng Trung Tính không kích thích 3 hòn núi Tham Sân Si thì tư tưởng đó sẽ:

1. Chẳng ảnh hưởng gì đến Chơn Tâm (khi trồi lên khỏi luồng Bavanghă.

2. Khi chìm xuống, nó lại lưu lại một vết trung tính (vết màu vàng) trên luồng Bavangha hay cá tính của cá nhân đó.

Động tác đó sẽ càng mạnh khi tư tưởng trung tính đó càng mạnh.

Để tạo nên một tư tưởng trung tính mạnh mẽ, không còn cách nào khác là bắt cá nhân đó Tự Kỷ Ám Thị bằng cách vẽ một hình ảnh trong tư tưởng của họ và hình ảnh phải có tính cách trung tính đối với họ. Và danh từ chuyên môn gọi động tác đó là: Quán. Hình ảnh trung tính được dùng là: Đề mục Thiền định (Kasina).

(Còn tiếp)

Mến.

Do vậy, mặc dù khi tập tành, tình trạng công phu cứ là cà xịch cà đụi nhưng qua những lý luận cù nhầy vừa rồi, tụi mình không còn buồn về hiện tượng trên nữa. Mà trái lại lại càng mừng và vui thích. Mặt khác, tâm thức tụi mình đều giống nhau một điểm là:

1. Cái gì sướng thì a dua mà theo, cái gì khổ thì chán và bỏ, không thèm theo.

2. Cái gì còn xài thì càng ngày càng mạnh, cái gì không xài thì càng ngày càng yếu và có khi (biết đâu) lại rơi vào quên lãng.

Việc chú tâm vào một đề mục Trung Tính kể trên sẽ làm cho tâm thức tụi mình càng ngày càng nhẹ nhàng và an lạc. Từ hai hiện tượng và kinh nghiệm tâm linh kể trên, tụi mình lại rơi vào tình trạng chuyện này lại xọ chuyện kia. Có nghĩa là tâm thức đang lăng xăng trăm thứ: Nào là tâm vương, tâm sở, tâm Tham (8 loại), tâm Si (2 loại)... mấy thứ đó, hàng ngày cứ lôi kéo tụi mình phải mần cái này, phải chạy theo cái kia. Thì nay, nhờ vào luồng gió Trung Tính tươi mát đã Đổi Mới Tư Duy và tất nhiên, những cái trước kia là mục đích tối hậu của, mình thì nay: Chúng đã trở thành trò hề [...]

Và cũng nhờ vào cung cách gôm tâm vào đề mục Thiền Định, Tâm thức, khi gom tâm, chỉ còn 4 vấn đề:

1. Cố gắng, nghiến răng, nghiến lợi tạo cho được một hình ảnh Trung Tính xuất hiện đằng trước mặt.

2. Cố gắng giữ hình ảnh đó xuất hiện càng lâu càng tốt.

3. Do cung cách gôm tâm đó mà mình tạm quên được những lo âu hàng ngày mà được an vui và nhẹ nhàng tâm trí trong vài giây phút.

4. Và độ tập trung tư tưởng do được huân tập mà càng ngày càng mạnh thêm.

Danh từ chuyên môn của 4 vấn đề trên lần lượt là:

Tầm, Tứ, Hỷ Lạc và Nhất Tâm.

(Còn tiếp)

Mến.

TB: Hình Ảnh Xuất Hiện Đằng Trước Mặt có lợi thế là làm cho tụi mình tạm thời quên đi ngay một lúc 5 giác quan: (Mắt, Mũi, Tai, Vị và Xúc Giác) và chỉ còn một đối thủ độc nhất là Ý Thức mà thôi. Nếu so sánh với cung cách tập trung vào Hơi Thở thì cách này còn trụ vào Mũi hay Xúc Giác (điểm ra vào của hơi thở) cộng với Ý Thức (2 cái). So với cách trên, tụi mình chỉ còn một (1) cái.

Mặt khác hơi thở là một đề mục di động (nên tâm thức cũng phải di động tuy rằng rất ít) theo hơi thở: Phồng xẹp, ra vào... do vậy mà Độ Nhất Tâm còn yếu vì còn bị sự ra/vào; phồng/xẹp làm môi giới. Hình ảnh xuất hiện đằng trước mặt là một hình ảnh cố định, tại một điểm, nên: Độ Nhất Tâm mạnh hơn. Như vậy cách trên Focus và ngầu đời hơn.

Chào các Bạn.

Nay lại đi sâu vào chi tiết về sự tác dụng của đề mục Trung Tính của Thiền Định.

Khi tâm thức hay ý thức bị gom vào một đề mục thiền định thì từ lăng xăng ngàn thứ, nay chỉ còn 4 thứ (Thật là tài tình!) Tầm, Tứ, Hỷ Lạc, Nhất Tâm. Phát kiến Vô Tiền Khoán Hậu của Đức Phật: Ngài đã sử dụng con đường Tà để vào Chính Đạo. Các Bạn cứ tưởng tượng đây là một lực sĩ thi nhảy xa. Lực sĩ tài ba này lấy thế (đà) từ một tọa độ tâm thức:

1. Con Người, được định nghĩa là:

Sinh vật đi bằng hai chân, xương sống thẳng đứng và *Có Hiếu đối với Cha Mẹ (một đức tính mà tất cả những sinh vật khác, trên trái đất, đều không có).

2. Bằng cách gom tâm vào đề mục xuất hiện đằng trước mặt, Lực sĩ băng mình vào quỹ đạo của các tầng trời (Tà Đạo):

Sơ Thiền: Ở đây ý thức còn đủ bốn (4) chữ trên. Đề mục xuất hiện chỉ mới 12 giây còn mập mờ, khi có, khi không): Tầm; Tứ, Hỷ Lạc, Nhất Tâm.

Nhị Thiền: Đề mục xuất hiện được 12 cho tới 40 giây (second) mà tâm thức mất đi một chữ (một cách tự nhiên) và chỉ còn có ba (3) chữ: Tứ, Hỷ Lạc, Nhất Tâm.

Tam Thiền: Đề mục nay đã được định vị và xuất hiện đằng trước mặt từ 40 giây đến 70 giây. Tâm thức lại mất đi một cách tự nhiên một trạng thái (ở đây là một chữ nữa và chỉ còn có hai (2) mà thôi: Hỷ Lạc, Nhất Tâm.

Tứ Thiền: Đề mục xuất hiện trên 70 giây, trạng thái Hỷ Lạc tưởng như là không thể tách rời được nay với vận tốc và sức mạnh của ý thức ở trạng thái Chánh Định này, nó đã bị xé bức ra làm hai để bỏ đi một mảnh; vì vậy mà ý thức chỉ còn có hai (2) trạng thái (ở đây là chữ) mà thôi: Lạc và Nhất Tâm.

Chưa hết, lực sĩ lại băng mình vào bốn (4) Trạng Thái Không mà thường các tu sĩ khác (Tà Đạo) do không cẩn thận đã cho rằng đây là cứu cánh:

4.1. Không Vô Biên Xứ.

4.2. Thức Vô Biên Xứ.

4.3. Vô Sở Hữu Xứ.

4.4. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

Được trình bày và chỉ dẫn rõ ràng trong kinh *Bất Động Lợi Ích* nay có lẽ đã được đưa vào trang nhà của Huynh Bình Anson. Rồi khi tới đỉnh của giàn phóng Tà Đạo là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, Lực Sĩ (Đức Phật) mới dùng Vipassana và cùng với tâm xả (chú ý: Tới đây Lực Sĩ mới dùng Vipassana và tâm xả) để Thăng Hoa vào Niết Bàn.

(Còn Tiếp)

Mến.

Hai Lúa.

TB: Tâm Xả và Vipassana là hai lỗ hổng lớn nhất trong Đạo Phật. Đệ thường chứng kiến họ (các tu sĩ khác) đều lạm dụng Vipassana và tâm Xả: Họ Vipassana và Xả tèm lem, tùm lum khi tâm thức chưa được chuẩn bị cho thật chín mùi (Đúng sách kỹ thuật là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng). Đằng này mới ở Cận Định là họ đã xả rồi! Có người vào được Tứ Thiền ngay vào cung trời Vô Tưởng Thiên lại xả, đâm ra không đi tới đâu, vào đâu được cả! Cũng y như tụi mình lấy súng ra, cũng lên đạn, mở chốt an toàn, và chĩa vào đầu mình và bóp cò. Và tụi mình chỉ có một trường hợp duy nhất là toi mạng mà thôi: Khi súng có đạn thiệt và đạn đó đã được lên nòng và được bóp cò!

Còn những trường hợp khác tụi mình chỉ nghe một cái Cóc là cùng. Nếu được tượng hình như vậy, thì ở đây đạn chỉ được lên nòng khi mình đã đứng vững vàng ở cung trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng và động tác bóp cò là những kỹ thuật của Vipassana và Xả được áp dụng đúng lúc và kịp thời ở đây, tại cung trời này.

…..Chào quý Bạn.

Mặt khác khi chú tâm vào một đề mục thiền định, những biểu hiện, cảm giác trên thân thể của mình, cùng những biểu hiện của đề mục thiền định cho mình biết là mình đang ở chỗ nào của Tốc Hành Tâm (luồng Javana). Trong Abhidhammatthasangaha (Vi diệu Pháp) tập 1 (HT Thích Minh Châu) tr. 99 dòng 15, phần thích nghĩa trong đoạn Lộ Trình của An Chỉ Tốc Hành Tâm có ghi như sau:

[...]

Appanã nghĩa là hướng dẫn và y chỉ nhứt tâm trên đối tượng, như vậy là một hình thức của vitakka (Tầm) nhưng sắc sảo và mãnh liệt hơn. Vị muốn tu thiền lựa chọn một đối tượng thích hợp, tùy theo tánh tình của mình rồi chuyên chú quán tưởng cho đến khi chứng được Sơ Thiền. Ở đây lộ trình tâm sẽ như sau: Ý môn hướng tâm, Chuẩn Bị Tâm (parikammă), Cận Hành Tâm (upacară), Thuận Thứ Tâm (anulomă), Chuyển Tánh (gotrabhũ), An Chỉ (appanã). Tâm đầu là ý môn hướng tâm, đến trước Tốc Hành Tâm, và tuỳ thuộc với đối tượng được nhận thức.

[...]

Ghi chú:

Điều kỳ lạ là khi đệ nhập vào Vô Sắc (1983) để tìm hiểu luồng Javana (Tốc Hành Tâm) thì đệ phát hiện là thứ tự lại hơi đảo lộn:

Abhidhamma                            Đệ và anh Sơn

1. Chuẩn bị                               1. Chuẩn bị

2. Cận hành                              2. Thuận thứ

3. Thuận thứ                             3. Cận hành

4. Chuyển tánh             4. Chuyển tánh

5. An chỉ                                              5. An chỉ

Như vậy đệ phát hiện ra là có sự thay đổi thứ tự giữa hai sác na tâm thức trong luồng Javana đó là: Thuận Thứ rồi tiếp đến là Cận Hành. Trong khi đó ở Abhidhamma lại ghi: Cận Hành rồi mới đến Thuận Thứ (hết phần ghi chú). Tiếp theo đoạn trên:

[...]

Thứ đến Chuẩn Bị Tâm, sở dĩ được gọi vậy vì tâm này sửa soạn chuẩn bị cho một tâm cao hơn, là Đại Hành tâm, hoặc Siêu Thế Tâm.

Xong đến Cận Hành Tâm, vì tâm này khởi lên rất gần với Thiền tâm hay Siêu Thế Tâm sắp chứng được.

Thông thường 2 sát na tâm này khởi lên, bắt đầu cho lộ trình của Appanã (An Chỉ Tâm). Nhưng đối với tu sĩ đã thuần thục, chỉ có *Cận Hành Tâm* khởi lên, không có Chuẩn Bị Tâm. Tâm sát na thứ ba được gọi là Thuận Thứ vì tâm này vừa thuận với tâm trước và thuận với tâm tiếp (Chuyển Tánh Tâm). Chuyển Tánh Tâm là tâm đã diệt trừ Dục Giới tánh, phát triển Đại Hành Tánh hoặc siêu thế tánh. Tiếp theo tâm này là An Chỉ Tâm. Đến đây định tâm đã đạt được mức độ rất cao.

[...]

Còn một cách khác nữa để nói về lộ trình trên, cách lại này dựa vào những cảm giác trên thân thể và những biểu hiện của đề mục, hay những hình ảnh Thiền Định hay gọi là nimitta.

(Còn Tiếp)

Mến.

Chào các Bạn.

Nay lại bàn tiếp sự liên quan giữa các sát na của Tốc Hành Tâm và các hình ảnh, cảm giác thường xuất hiện trong khi Thiền Định. Nimitta thường gọi là những hình ảnh mà thiền sinh khi nhắm, mở mắt và tập trung tư tưởng vào một đề mục thường gặp trong lúc công phu. Nimitta trong hiện tượng Cận Định (Tâm gần nhập được Chánh Định) lúc đầu thường xuất hiện với 3 tính cách sau đây:

1. Bất Ngờ.

2. Không Báo Trước.

3. Và Không Theo Một Chủ Đề Nhất Định Nào.

Với 3 sát na tâm thức ở luồng tốc hành Tâm (javana):

- Chuẩn Bị

- Thuận Thứ

- Cận Hành

-- Khi đạt được sát na Chuẩn Bị:

Hành giả có những cảm giác ngay trên thân thể mình như sau:

Phình to ra Teo nhỏ lại Bị nghiêng Lúc lắc như ngồi võng hay xích đu. Tê rần từng luồng. Nổ trong đầu (kèm theo một tia chớp sáng) Ngủ gục (cã người hay từng phần).

Nimitta ở Cận định thường phản ảnh trạng thái thô tâm của mình trong khi Tâm đang lắng xuống do tác động của công phu. Ở đây:

Phình to ra là do tính cách tự cao, hay tự tôn tự đại. Teo nhỏ lại: Tự ty mặc cảm. Bị nghiêng:

Thiên lệch khi phê bình, cũng có khi do ảnh hưởng của từ trường chỗ tu tập gây nên: Nếu bị vậy, cứ xoay 45 độ theo chiều kim đồng hồ trong những lần Thiền Định kế tiếp cho tới khi không còn cảm giác Bị Nghiêng nữa thì thôi. Làm vậy để khỏi bị hao lực trong lúc công phu.

Lúc lắc: lăng xăng khi như vầy, khi thì như thế kia. Tê rần từng luồng và nổ là do tát động của Thô Tâm Sân hận Ngủ: Do thô tâm là Si nên thường bị Mê, nhưng cũng có khi do quá mệt gây ra. Ngủ ở đây là nói về tính cách sau khi đã ngủ một giấc đã đời rồi mà khi tập vẫn bị ngủ thì cái này đích thị do Thô Tâm Si gây ra.

-- Ở sát na Thuận Thứ, tâm thức có những hình ảnh sau đây, tất nhiên vì là Cận Định nên hình ảnh cũng xuất hiện với ba tính chất:

1. Bất Ngờ

2. Không báo trước

3. Và không theo một chủ đề nhất định nào

Đối với những hành giả nào nhắm mắt thì sẽ thấy rõ hơn, nhưng, nếu mở mắt, vẫn có thể thấy được trong màn đêm.

·        Một đóm màu xanh lơ

·        Một đóm có màu sắc lẫn lộn

·        Một đóm sáng màu đỏ hay cam

·        Hình như có một cái đèn pha chiếu từ bên trái hay bên phải kèm theo những giải màu sắc (đủ thứ màu)

Vì là sát na Thuận thứ, hình ảnh thường cho biết những nét chính của Hào quang mình.

- Một đóm màu xanh lơ: Người trầm tính, thích đọc sách.

- Một đóm màu đỏ hay cam: Người nóng tính.

- Một đóm có màu sắc lẫn lộn: Người này có khuynh hướng Thần Quyền (Võ Bùa, tính tình bất nhất, đa nghi một cách tiêu cực (Chỉ nghi ngờ vậy thôi chớ không cố gắng tìm hiểu)

- Như có một cái đèn pha...: Cũng Đa Nghi nhưng tích cực hơn.

Đặc biệt ở những ai có Ác Tâm nhiều (như đệ) thì họ sẽ cảm nhận được hai (2) cảm giác của cả hai sát na: Chuẩn bị, và Thuận thứ có nghĩa là vừa có cảm giác ở thân thể mà lại vừa có nhũng hình ảnh trên.

-- Tiếp đến sát na Cận Hành trong luồng Javana. Ở trình độ công phu này, hành giả có thể gặp những hình ảnh sau:

Một con mắt trái. Hoa rơi Người đứng, ngồi lúc nhúc, Nghe tiếng nói bên tai Ngửi được mùi thơm, hôi, mùi của phòng thí nghiệm...

Do tác động yên tĩnh của thô tâm sau một thời gian ngồi với một quan niệm Không nào đó hay một quan niệm buông xả hay buông bỏ (Từ 3 tháng trở đi tùy theo nghiệp quả của từng người). Hệ thần kinh và tâm thức trở nên trong sạch và cảm nhận được những rung động rất là tế nhị của những thế giới vô hình. Những hình ảnh này không mời mà tự nhiên xuất hiện do sự cộng hưởng của một giai từng Không nào đó! Cũng như không thể nói nó là vọng tâm (vì trước khi đó mình không có một khái niệm về nó thì dựa vào đâu mà kết luận: Nó là vọng?)

Ba hình ảnh đầu tiên thuộc về thế giới của Tha Hóa Tự Tại.

Đặc biệt hình ảnh hoa rơi làm cho mình lầm tưởng đó là cảnh giới thuyết pháp của Chư Phật được miêu tả trong các Kinh Đại Thừa. Hai Lúa tui xin mạng phép chép lại một đoạn kinh Pháp Hoa cho các Bạn nghiên cứu:

[câu 21 - 22 [phẩm Tựa, tr. 43] Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh đại thừa tên là Vô Lượng nghĩa Xứ Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở hộ Niệm [...]

Khi ấy trời mưa Hoa Mạn Đà La, hoa maha mạn đà la [...]

Hai Lúa đệ bị lọt bẩy ở nơi này khá lâu (1977 -1983)

Nghe tiếng hay Ngửi được mùi là vì cái trạng thái Không của hành giả đã ổn định hơn trước, nên mới bắt được các tầng số đó:

- Hương ấm thần: thường phát ra một mùi hương như hoa

- Tha Hoá tự tại: mùi thơm ngọt

- Quỷ thần: mùi khét hay mùi phòng thí nghiệm

- Hộ Pháp Kim Cang thường phát ra một mùi trầm (mùi của loại trầm tóc)

Nguy hiểm: Ngửi hay thấy sau một thời gian, hành giả có thể bị cảnh giới ảnh hưởng và làm tăng bản ngã vì 2 lý do:

1. Khi đi hỏi thì không ai giải thích rõ ràng, làm cho mình tưởng lầm là chỉ có mình là đạt tới trình độ tâm linh đó thôi. Đặc biệt, ai mà thấy hoa rơi nhiều thường hay bố thí một cách rất là ta đây.

2. Phần đông là không ai thấy gì cả nên mình thường cho rằng: Ta là tu hành tinh tấn hơn những người khác (vì trước đó mình cũng như họ: mình không thấy cái gì cả). Do vậy các Thiền Sư lỗi lạc thường định nghĩa Tha Hóa Tự Tại là con của Thiên Ma là vậy!

Mến

Cà xịch cà đụi

Fri, 27 Feb 1998 10:36:11

Chào các Bạn.

Sở dĩ mình thấy loạn cào cào và không điều khiển được cái thấy này là vì thô tâm đã Không nhưng vi tế tâm Chưa Không Được do hợp âm (Không-Có) này mà tụi mình tạo thành một một dạng giao động tâm thức và giao động này đã cộng hưởng với những cõi của Dục Giới. Nói một cách khác: Khi tụi mình ngồi như vậy (với một Tâm Không một cách thụ động), sau một thời gian: Hệ thần kinh tạm ổn định ở trạng thái Thô Tâm, và trở nên như một máy thu sóng. Nên lúc đó mình tự nhiên thấy này thấy nọ (do luật cộng hưởng). Do thấy này nọ thành thử Hành giả thường lầm lẫn đây là Huệ nhãn. Đây không phải là Huệ Nhãn,

Tại Sao?

1. Vì tụi mình không điều khiển được cái thấy này!

Ví dụ: Trong khi thấy này nọ, thử tác ý muốn thấy trên con đường dọc theo cái bloc của mình có bao nhiêu cái cây?

- Xin thưa cái này nó không có khả năng đó. Huệ nhãn thì thấy được liền

2. Vì nếu đã nói là Huệ thì mình phải biết nguyên nhân tại sao những cảnh giới này xuất hiện và nguồn gốc của nó. Ngay khi mình thấy nó: Chi tiết này rất quan trọng khi các bạn gặp những người tự xưng hay có những hành động chứng tỏ rằng “mình đã khai Huệ” hay khai Huệ Nhãn. Người đã Khai Huệ rồi thì không có cái trò đoán mò và nói chuyện một cách “Tâm lý như các Thầy bói”. Họ nói ngắn gọn và chính xác! Xin hẹn thư sau sẽ bàn về Chánh Định có nghĩa là mình sẽ thấy gì sát na Chuyển Tánh.

-- Ngay vào sát na kế tiếp, Chuyển Tánh:

Tâm lý hành giả được nhảy vọt và thăng cấp bằng cách:

1. Chuyển cách công phu:

Thay vì ngồi hay nằm với “Tâm Không” một cách thụ động như đã bàn vào bài trước đó với tất cả những hậu quả của nó. Nay hành giả cố gắng tạo một hình ảnh xuất hiện đằng trước mặt. Hình ảnh đó là đề mục thiền định do mình tự chọn hay do một Thiền Sư chọn cho mình. 

2. Do cố gắng tạo một hình ảnh xuất hiện đằng trước mặt, nên hành giả không còn ngồi hay nằm một cách thụ động nữa mà lại rất là tích cực. Do tính cách “chuyển tánh” (từ Thụ động sang tích cực) này mà hành giả không còn thấy những cảnh giới trước đó nữa. Cách này hoàn toàn hợp lý. Những sai lầm thường gặp khi gặp những hình ảnh ở Trạng thái Cận Định (hay: Chuận Bị, Thuận Thứ, Cận Hành):

1. Vì tiêm nhiễm tính cách Không của thể tánh mà hành giả vô tình gạt bỏ hay xóa bỏ hay Xả tất cả những hình ảnh ở trạnh thái Cận Định để cố gắng vào cái Không: Chính cách này sẽ làm hành giả rơi vào một tình trạng là: Không Được Gì Cả. Người đầu tiên bị cái này là Maha Ca Diếp Tại sao?

Vì lúc đó là Huệ mà không có Định: Huệ là thấy này thấy nọ, nhưng không có Định là vì chỉ mới ở Cận Định mà thôi. Các Bạn sẽ đụng những tu sĩ loại này với những lý luận không rõ ràng: Chuyện này lại xọ chuyện kia, giải quyết thắc mắc không sắc nét và thực tế. Lời nói thường hay *vòng vo tam quốc* hay bị hiểu lầm. Do đó các Thiền sư lỗi lạc có định nghĩa tình trạng này như sau: Huệ mà không định là Điên (vì tính cách hiểu lầm của những người nghe pháp, mà người thuyết pháp không có cách gì để kiểm tra họ được vì: Tình trạng là mình (người thuyết pháp) không có Chánh Định mà chỉ ở Cận Định mà thôi.

2. Sợ quá mà không tập nữa. Vì không ai giải thích. Vì người ta nói là Không! Mà tại sao mình ngồi thì lại thấy tùm lum, như vậy là có sai cái gì đó và: Thôi, không tập nữa.

Trở lại tâm Chuyển Tánh:

Hình ảnh của đề mục chọn sẵn trước đó (như Đất, Nước, Lửa, Gió) xuất hiện trong *Không Gian Ba Chiều (3D).  Nổi bật nhất là tình trạng dâm dục, tham dục ở Dục Giới không còn nữa. Tụi mình rơi vào Thiền Tâm.

Điều này dẫn đến một phát kiến thú vị như sau:

Tụi mình có thể tạo một đường tắt bằng cách:

Vào thiền và chú ý Ngay Vào Đằng Trước Mặt và cố vẽ cho bằng được hình ảnh đề mục! Như vậy lộ trình tâm thức lúc bấy giờ là:

Ý môn hướng tâm rồi tới ngay Chuyển Tánh và An Chỉ.

Làm cách này tụi mình sẽ thông qua được những cái rắc rối của Cận Định.

(Hết)

Xin nhường micro lại cho Huynh khác.

Mến.

Hai Lúa.

782
0.0763258934021 sec