
193. Tứ Như Ý Túc
Tập Tin II
Bài 193. Tứ Như Ý Túc
37199- Tứ Như Ý Túc
HL: Chào các Bạn.
Huynh KKT có ghi lại như sau. Để đạt được như vậy thì phải tu:
- DỤC như ý túc (STRONG ASPIRATION)
- TINH TẤN như ý túc (EFFORT, VIGOR)
- NHẤT TÂM như ý túc (INTENSE CONCENTRATION)
- QUÁN như ý túc (INTENSE CONTEMPLATION)
Theo ý đệ thì:
Dục Như Ý Túc: Là ý thích thành Phật (biết rồi khổ lắm nói mãi!). Thế nhưng, tụi mình nên tâm niệm rằng: Không có sự quyết tâm này thì không làm ăn gì được cả. Mà thành Phật thì mình được những gì và mất những gì? Hầu như ít người nói lên được một cách đầy đủ đặc tính của một Đức Phật là như thế nào!
Thật là đau buồn vì quá ít người dòm vào vấn đề này. Và vì lý do: Đặc tính của một Đức Phật không được đề cập đến nên tụi mình lại gặp một số tu sĩ mất căn bản. Sự mất căn bản này được thể hiện rất rõ qua phản ứng sau đây.
Khi những tu sĩ này vớ được qua sách vở câu Phật Ngôn: Chánh Pháp còn bỏ huống chi là tà pháp. Thì số tu sĩ đó bỗng nhiên thành những giáo chủ XTMTT (xạo thấy mẹ thứ thiệt). Những giáo chủ này không tự tu nữa mà chỉ lo sắp xếp tình trạng tu chứng của bàng quan thiên hạ, qua những kết luận như sau:
-- Ông này còn chấp pháp!
-- Ông kia còn chấp tướng!
Dục Như Ý Túc: Là lòng ước muốn hay đúng hơn là “Tham vọng tu thành Phật”. Không có cái tham vọng này thì chuyện tụi mình làm chỉ như là đóng đinh trong hư không. Thật vậy, ai mà lại dại dột và đui mù đến độ lại đem cây đinh và lại đóng trong không khí bao giờ?
Ấy vậy mà không hiếm vị tu sĩ lại rắn mắc, thi đua quở trách nhau về cái chuyện ưa thích thành Phật của người này, người nọ! Các vị này cho đó là cái chấp pháp lớn nhất cần phải triệt để loại trừ. Buồn cười một cái là: Đối với các vị này tu thì cứ tu mà không được nói là tu thành Phật! Lý do là vi chính các vị này đã đọc qua sách vở rằng: các Tổ đã tuyên bố trên giấy trắng mực đen là:
-- Gặp Phật thì chém Phật, gặp Ma thì chém Ma, gặp Tổ thì chém Tổ!
Theo cái kiểu này thì cứ búa xua cả lên. Quan niệm này đi đến đường cụt, không có lối thoát. Hai đứa nhỏ (con của cô bé hàng xóm), trong khi ngồi coi cái VCD chùa mà đệ vừa mới đem về, tụi nó nhận xét về vị Ni Cô trù trì người ngoại quốc đang thuyết pháp (về trí tuệ của Phật Giáo) như sau:
-- Bà Thầy này tu không bằng Mẹ nữa!
Chuyện này cũng y như là câu chuyện cổ tích: “Ông Vua ở Truồng” vậy! Do vậy để có cái Dục Như Ý Túc cho nó đúng thì tụi mình nên biết rằng: Đời sống hằng ngày của Đức Phật ra làm sao.
Sau đâu là phần trích dẫn từ cuốn Đức Phật và Phật Pháp của tăng thống Narada: chương 13
Đời sống hằng ngày của Đức Phật:
Đức Phật có thể được xem là vị giáo chủ hoạt động tích cực và nhiệt thành nhất trên thế gian. Ngài luôn luôn bận rộn với công việc đạo pháp trọn ngày, ngoại trừ những lúc cần phải để ý đến vài nhu cầu vật chất. Chương trình hoạt động của Ngài được sắp xếp rất có quy củ và mực thước. Đời sống bên trong là hành thiền, tĩnh tâm và chúng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn. Bên ngoài là phục vụ vị tha, nâng đỡ phẩm hạnh của chúng sanh trong khắp thế gian. Chính Ngài tự giác, rồi tận lực cố gắng giác ngộ người khác, dẫn dắt chúng sanh ra khỏi mọi phiền lụy của đời sống.
Hoạt động hằng ngày của Đức Phật chia làm 5 giai đoạn:
1. Buổi sáng. 2. Buổi trưa. 3. Canh đầu. 4. Canh giữa.
5. Canh cuối.
Buổi sáng
Thường ngày, lúc còn tảng sáng sớm, Đức Phật dùng thiên nhãn để quan sát thế gian, xem có ai cần Ngài tế độ. Nếu thấy có người cần hỗ trợ tinh thần thì không đợi thỉnh cầu, Ngài tự ý đến để dẫn dắt người ấy vào chánh đạo. Ngài đi bộ. Nhưng một đôi khi Ngài cũng dùng phép thần thông bay trên không trung. Thông thường, chính Ngài tự ý đi đến những người hư hèn ô nhiễm, như tên cướp sát nhân hung tợn Angulimala và quỷ Dạ Xoa, bạo tàn ác độc. Nhưng cô bé Visakha có tâm đạo nhiệt thành và nhà triệu phú Anathapindika (Cấp Cô Độc) và những bậc thiện trí như Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggallana (Mục Kiền Liên) thì tìm đến thọ giáo để được Ngài dẫn dắt.
Trong khi tế độ thế gian, nếu không có ai thỉnh về trai tăng, Đức Phật - người mà các bậc vua chúa đều tôn sùng kính nể và khấu đầu đảnh lễ mỗi khi đến trước mặt - đi trì bình khất thực trên các nẻo đường, khi thì một mình, lúc thì với chúng Tăng. Im lặng đứng trước cửa từng nhà, không thốt ra một lời, Ngài thọ lãnh vật thực nào mà tâm trong sạch bố thí của thiện tín hoan hỷ sớt vào bát, rồi trở về chùa. Cho đến năm tám mươi tuổi, mặc dầu đau ốm bất thường, Ngài vẫn đi trì bình trong thành Vesali.
Đức Phật thọ thực trước ngọ. Sau đó chư vị tỳ khưu hợp lại nghe Ngài thuyết một bài Pháp ngắn. Sau thời Pháp, Đức Phật ban lễ quy y Tam Bảo, truyền Ngũ Giới, và nếu có vị nào đạt đến trình độ tinh thần đầy đủ, Ngài chỉ dẫn vào Thánh Đạo, Con Đường Giải Thoát. Một vài vị đến gần để xin đề mục hành thiền thích hợp theo tâm tánh mình. Nếu có lời thỉnh nguyện, đôi khi Ngài cũng ban hành lễ xuất gia.
Buổi trưa
Sau khi giảng dạy hoặc kêu gọi chư vị đệ tử, Đức Phật lui về tịnh thất. Nếu muốn, Ngài nằm nghiêng mình bên mặt và định thần một lát. Lúc dậy, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karuna Samapatti) và dùng Phật nhãn [1] quan sát thế gian, nhất là các vị tỳ khưu đã đi vào rừng sâu hành thiền nơi vắng vẻ và các vị đệ tử khác ở xa, để hướng dẫn và khuyên dạy. Nếu có một vị ở xa cần được hỗ trợ, Ngài dùng thần thông bay đến nơi để tế độ rồi trở về tịnh thất.
Vào buổi chiều, thiện tín kéo đến nghe Pháp. Do Phật nhãn, Ngài nhìn vào khuynh hướng tâm tánh của từng người trong cử tọa để thuyết Pháp độ một giờ. Mỗi người nghe, dầu tâm tánh và tình cảm hoàn toàn khác nhau, đều có cảm tưởng rằng bài Pháp của Đức Phật đặc biệt hướng về mình. Đó là phương pháp giảng dạy của Đức Phật. Ngài thường dùng những thí dụ, những hình ảnh hay những ngụ ngôn có liên quan đến đời sống hằng ngày trong nhà để giải thích giáo lý, và Ngài nhắm vào tri thức hơn là tình cảm.
Đối với người thuộc hạng trung bình, Đức Phật bắt đầu giảng về hạnh bố thí, giới luật và hạnh phúc ở các cảnh Trời. Đối với người tiến bộ hơn, Ngài đề cập đến những nguy hại của thú vui vật chất và hạnh phúc của sự từ khước, buông xả, thoát ly. Với các vị đạt đến trình độ cao thượng, Ngài giảng về pháp Tứ Diệu Đế.
Trong một vài trường hợp hiếm hoi - như trường hợp Angulimala và bà Khema - Đức Phật dùng oai lực thần thông để ảnh hưởng đến tâm người nghe.
Giáo Pháp Cao Siêu của Đức Phật gợi nguồn cảm hứng cho cả lớp đại chúng lẫn hàng trí thức. Một thi sĩ Phật tử có hát lên những lời tán tụng như sau: “Đem phỉ lạc đến bậc thiện trí, tạo kiến thức cho hạng trung bình, và đánh tan đêm tối của người ngu muội, đây quả thật là ngôn ngữ của tất cả mọi người.” [2]
Cả hai lớp người, giàu và nghèo, cao sang và thấp kém, đều từ bỏ đức tin cũ của mình để hướng về Thông Điệp Hòa Bình của Đức Phật. Nền đạo pháp (Sasana) sơ sanh bắt đầu với năm vị đạo sĩ như hột nhân của tế bào, sớm sanh sôi nẩy nở, mở rộng đến hàng triệu người, và một cách êm thắm, ôn hòa, khắp miền Trung Ấn Độ.
Canh Đầu
Từ sáu giờ đến mười giờ đêm là khoảng Đức Phật dành riêng để các vị tỳ khưu được tự do thỉnh cầu Ngài rọi sáng những hoài nghi của mình, hỏi về những điểm phức tạp trong Giáo Pháp, xin đề mục hành thiền, và lắng nghe thuyết giảng.
Canh Giữa
Từ mười giờ đến hai giờ khuya, chư Thiên và chư Phạm Thiên là những chúng sanh mà mắt người không thể trông thấy, từ các cảnh Trời, đến hầu Phật và hỏi Ngài về Giáo Pháp. Trong kinh sách có một đoạn, thường được nhắc đi lặp lại như sau: “Lúc bấy giờ đêm đã khuya, một vị Trời có hào quang rực rỡ đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ và đứng lại một bên”. Nhiều bài kinh và nhiều lời vấn đáp được ghi lại trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm).
Canh Cuối
Canh cuối cùng trong đêm, từ hai giờ khuya đến sáu giờ sáng, được chia làm bốn phần. Trong phần đầu, từ hai đến ba giờ, Đức Phật đi kinh hành (cankamana). Từ ba đến bốn giờ, Ngài nằm định thần, nghiêng về phía tay mặt. Từ bốn đến năm giờ, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karunasamapatti), và rải tâm Từ đến khắp nơi, làm êm dịu tâm trí tất cả chúng sanh. Sau đó Ngài quan sát thế gian bằng Phật nhãn xem coi có thể tế độ ai. Những người đạo hạnh và những người cần đến, dầu ở cách xa thế nào Ngài cũng nhận ra và, mở lòng bi mẫn, tự ý đến với họ để đem lại sự hỗ trợ cần thiết.
Như vậy, trọn cả ngày, Đức Phật luôn luôn bận rộn với nhiệm vụ đạo đức. Ngài chỉ ngủ một giờ đồng hồ. Trong hai giờ tròn, buổi sáng và lúc bình minh, Ngài đượm nhuần toàn thể thế gian với tâm Từ vô lượng và đem hạnh phúc đến cho hàng triệu chúng sanh. Tự nguyện sống đời nghèo nàn, đi trì bình khất thực mà không làm phiền đến ai, rày đây mai đó, tám tháng trời liền trong năm để hoằng khai Diệu Pháp. Ngài không ngừng gia công để đem lại điều tốt đẹp và hạnh phúc cho tất cả, chí đến ngày nhập diệt, vào năm tám mươi tuổi thọ.
37502- Tứ Như Ý Túc (2)
HL: Chào các Bạn.
Sau khi tụi mình nghiên cứu trong một ngày, Đức Phật sinh hoạt ra làm sao. Bước kế tiếp là chúng ta lại quay ngược lại để coi cái ngày Thành Đạo của Ngài:
Lại trích dẫn trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp của tăng thống Narada: Trong chương 2 (Chiến Đấu Để Thành Đạo Quả), đoạn Bình Minh Của Chân Lý, Ngài Narada đã ghi lại một cách kỹ lưỡng như sau:
Bình Minh Của Chân Lý
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức khỏe và dễ dàng nhập Sơ Thiền (Jhana), tầng thiền mà Ngài đã thành tựu trong buổi thiếu thời [10]. Rồi từ đó dần dần Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an trụ hoàn toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương lau chùi bóng láng, và mọi sự vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác có liên quan đến trạng thái “Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ” (Pubbe-nivasanussati Nana, Túc Mạng Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba kiếp, rồi bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian, rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra đi, Ngài tái sinh vào cảnh nào, có tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sinh vào cảnh này.
Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách thức tái sinh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá khứ. Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến quá khứ, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ “Tri Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh” (Cutupapata Nana, Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sinh vào một kiếp sống khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người đau khổ, tất cả đều trải qua hiện tượng diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người.
Ngài biết rằng người này, do hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện, nguyền rủa bậc Thiện Trí Cao Thượng, tin tưởng không chân chánh và có nếp sống của người tà kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa đời, đã tái sinh vào những trạng thái bất hạnh.
Ngài biết rằng những người kia, do hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp, biết tôn trọng bậc Thiện Trí Cao Thượng, có đức tin chân chánh và có nếp sống của người có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã tái sinh vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.
Như vậy, với Thiên Nhãn Minh, Ngài mục kích tình trạng phân tán và cấu hợp trở lại của chúng sanh. Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ Nhì mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến tương lai, Ngài hướng tâm thanh tịnh về “Tuệ Hiểu Biết sự Chấm Dứt các pháp Trầm Luân” (Asavakkhaya Nana, Lậu Tận Minh) [11]. Đúng với thực tại, Ngài nhận thức: “Đây là Phiền Não”, “Đây là sự Chấm Dứt Phiền Não”. “Đây là Con Đường dẫn chấm dứt Phiền Não”.
Cùng một thế ấy, đúng với thực tại Ngài nhận định: “Đây là Ô Nhiễm”. “Đây là sự Chấm Dứt Ô Nhiễm”. “Đây là con đường dẫn đến Chấm Dứt Ô Nhiễm”.
Nhận thức như thế, tâm Ngài giải thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh).
Được giải thoát, Ngài biết rằng: “Ta đã được giải thoát” [12] và Ngài nhận thức: “Tái sinh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc cần phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.” [13]
Đây là Tuệ Giác Thứ Ba mà Ngài chứng ngộ trong canh ba, đêm Thành Đạo. Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đến...
Nay lại bàn tiếp đặc tính của Đức Phật.
Như vậy, Đức Phật không phải như các Thầy đã tự ý đục bỏ và nói lại theo ý mình. Và khi các Thầy làm như trên: Đức Phật không còn đầy đủ, không còn sống động và trở thành những khái niệm khô cằn và không đầy đủ nếu so sánh với những trích dẫn trên.
Hy vọng rằng, có Bạn sẽ suy nghĩ ra rằng: Chính nhờ vào những khả năng trên mà Đức Phật mới có thể... sáng tác ra Tam Tạng Kinh Điển.
37509- Tứ Như Ý Túc (3)
HL: Chào các Bạn
Như vậy muốn thành Phật thì phải hiểu thật rõ ràng: Thế nào là một Đức Phật. Qua những trích dẫn trên, tụi mình thấy rằng đây là một vấn đề trọng đại và chuyện không đơn giản như mình tưởng: Nội cái ngủ của Ngài thôi thì đối với tụi mình cả là một vấn đề rồi: Ngài chỉ ngủ có một giờ mà thôi trong suốt 49 năm.
Đây là giấc ngủ của dân biệt kích khi lâm trận!
Chưa kể những cái phương tiện mà Ngài dùng hàng ngày trong 49 năm thuyết pháp như:
- Thiên Nhãn
- Phật Nhãn
- Phép thần thông bay trong không gian
- Nhập Đại Bi Định
Đồng thời sự năng nổ của Ngài là khi có một ai đó cần Ngài trợ giúp thì Ngài tự ý đi đến nơi đó liền và không chờ người đó thỉnh nguyện, cầu khẩn hay kêu réo! (Chớ không phải như bây giờ, thí chủ dùng xe cũ mà đón Thầy tới nhà thì Thầy... bỗng nhiên nói rằng: Thầy bị bận việc và Thầy cho chú tiểu đi thay thế mình! Còn nếu xe Huê Kỳ mới toanh thì Thầy tuyên bố hết bận việc và hoan hỷ đi liền).
Ngoài ra vào ngay đêm thành đạo, thì Đức Phật, Ngài có những khả năng như sau:
- “Tuệ hồi nhớ tiền kiếp”
(Pubbe-nivasanussati Nana, Túc Mạng Minh)
- “Tri Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh”
(Cutupapata Nana, Thiên Nhãn Minh)
- “Tuệ Hiểu Biết sự Chấm Dứt các pháp Trầm Luân”
(Asavakkhaya Nana, Lậu Tận Minh)
Chưa hết, ngay khi nhập diệt để vào Niết Bàn:
Ngài còn nhập định vào những cung trời mà tụi mình hoàn toàn mù tịt:
Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, Rồi Diệt Thọ Tưởng Định.
Như vậy muốn tu thành Phật thì tụi mình phải làm sao?
37548- Tứ Như Ý Túc (4)
HL: Chào các Bạn.
Vậy là tụi mình biết nếu muốn thành Phật thì nội công của tụi mình phải thâm hậu đến như thế nào rồi! Và muốn được như vậy thì chuyện lại không phải là dễ. Vì lý do đó mà mình phải cần hết tất cả những mánh khóe của tà đạo cũng như của chính đạo thì mới có thể hy vọng rằng có ngày tụi mình cũng có thể thành Phật như lời tuyên bố chắc nịch của Đức Bổn Sư. Ngài đã... nhẹ nhàng thọ ký cho bọn mình qua câu Phật Ngôn độc đáo và độc nhất vô nhị rằng:
-- Tui là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành!
Để chứng minh cho lời thọ ký trên, Ngài đã đào tạo ra hết thẩy 1250 Ngài A La Hán! Chia đều cho thời gian thuyết pháp độ sanh là: 49 năm X 12 tháng = 588 tháng.
Lấy 1250 Ngài A La Hán chia đều cho 588 tháng thì tụi mình có khoảng 2 vị A La Hán chỉ trong vòng một tháng.
Có nghĩa là đầu tháng một Ngài tu xong! Thì cuối tháng, lại có một Ngài khác cũng được giải thoát y như Ngài! Tính toán như vậy, tụi mình mới thấy được cái vận tốc thần sầu quỷ khốc của Ngài khi Ngài dùng cái ngón tay (ý của đệ định nói là giáo pháp) để chỉ ngay chốc cái mặt trăng (ý của đệ muốn nói đến cái tình trạng giải thoát)! Nhìn người, rồi lại nhìn vào chính mình, tụi mình chỉ có nước chép miệng thở dài:
-- Có lẽ vì ham chơi, hay vì sinh bất phùng thời hoặc là vì... trễ chuyến đò mà cho tới nay tụi mình dã ở lại lớp đến trên 2500 năm rồi!
Trong khi dó, một số rất là đông lại làm cái chuyện mờ ám: chuyên môn... ký check khống (trả tiền bằng ngân phiếu mà không có tiền bảo chứng) ý của đệ muốn nói là: Số đông này có biệt tài: Giảng dạy những đoạn khó khăn của kinh sách, thuyết pháp rất là hùng hồn! Lý giải là số một! Nhưng chính bản thân những vị này lại không có một kinh nghiệm tâm linh nào cho ra hồn, ra dáng cả! Lý do là vì: họ đã vô tình tự trang bị quá nhiều lý thuyết và rồi chính những lý thuyết này lại tác dụng ngược lại vào họ.
Nên họ lại không đi đâu được cả.
Y như là một người rất là khỏe mạnh, mặt mày hồng hào, với dáng đi thật là vững tin và đầy sức sống! Nhưng khi vào thư viện, rồi lại đọc những sách y khoa rồi... tự khám bệnh cho chính mình: đọc giả này sẽ thấy đâu cũng là bệnh hoạn, đâu đâu cũng là vi trùng truyền nhiễm và khi ra về thì mang một tâm trạng sầu thảm theo kiểu... chết đến nơi rồi! Mặt mày trước đó hồng hào ra sao thì nay lại xanh lè xanh lét, dáng đi trước đó tự tin ra làm sao thì nay lại rụt rè và đầy bệnh hoạn! Sau đó, người ta thấy đọc giả này khi đi đến đâu thì tay trái cầm chai Alcool, tay phải cầm cục bông gòn, vị này khử trùng lung tung. Với ánh mắt soi mói: vị này thấy đâu cũng là vi trùng, đâu cũng là bệnh hoạn!
Khi ăn thì sợ theo ăn! Khi uống thì lại sợ theo uống! Tóm lại, Vị này không làm gì được cả!
Vị này đã tinh tấn thâu gom kiến thức và lại hiểu theo ý của chính mình, với kết quả là: Chưa phải là Bác Sĩ: Vị này đã bị bịnh nghề nghiệp rồi! Cũng như một số anh em bọn mình chưa đi tới đâu hết mà đã sợ Ngũ Ấm Ma vậy! Như vậy, tinh tấn sai cách (thay vì hạ thủ công phu, thì lại đi tìm và đọc sách, hay so sánh lý luận này với lý luận kia rồi rút ra một kết luận riêng cho mình thì sẽ dẫn đến cái sợ (sợ Ngũ ấm ma). Mà đã sợ thì... hết đi.
Tinh tấn kiểu này, thì y chang như người nhảy đầm vậy: cũng bước, cũng lùi, cũng lôi, cũng kéo, cũng ra mồ hôi, cũng đụng, cũng chạm... nhưng nhìn chung những vị này chưa ra khỏi căn phòng của mình.
37558- Tứ Như Ý Túc (5)
HL: Chào các Bạn.
Cái Tinh Tấn Như Ý Túc là cái khó nói nhất. Tuy vậy đây là những kinh nghiệm của bọn lubu. Giới luật của bọn này chỉ có một điều duy nhất mà thôi:
1. Kiểm soát tư tưởng liên tục. Do hành động kiểm soát liên tục này, mà bọn này phát hiện ra những cái chuyện thoái hóa của sự tinh tấn:
(Mời bà con đọc chầm chậm, đồng thời suy nghĩ cho kỹ)
1.1. Bỗng nhiên trong đầu lại phát thanh ra một bài hát vu vơ nào đó! Lý do: đang hưởng phước (có nghĩa là tập dợt trở nên lè phè, tà tà rồi)
1.2. Bỗng nhiên, câu chuyện đã chấm dứt lâu rồi, nay lại hồi sinh một cách bất ngờ! Lý do:
- Nếu câu chuyện có tính cách liên tục, có đầu, có đuôi: còn Tham.
- Nếu câu chuyện lại đứt đoạn, lộn xộn và không có thứ tự hay là không có chủ đề rõ ràng: Còn Sân.
- Nếu câu chuyện lại mất đi một hay nhiều đoạn: Si còn nhiều
1.3. Tự nhiên cảm thấy trống vắng và buồn mà không có lý do.
Lý do: Tinh tấn ngon lành vì thô tâm đã yên lặng nhờ vào đề mục nên nó còn có đủ lực để ảnh hưởng đến vi tế tâm, do vậy mà có cảm giác trống vắng. Buồn là vì cơ thể chưa quen với sự yên lặng trên mà sinh ra phản ứng như vậy [thấy sợi dây (sự yên lặng) lại tưởng là con rắn, nó lại dịch ra là sự buồn chán)].
Giải quyết: Vào lại đề mục lại và tập dữ dằn hơn nữa.
Mặt khác tinh tấn lại có một yếu tố thiết thực nữa là nó đem lại sự hạnh phúc cho người tập. Thế nhưng đoạn này thường là bị bỏ quên nhiều nhất. Hầu như không có khẩu quyết nào của Chư Tổ và Thầy lại đề cập đến chi tiết này.. Ngược lại, tụi mình chỉ thấy đâu đâu cũng chỉ là buông bỏ, rồi bỏ buông, rồi thả xuống, rồi thả luôn!... và rồi thê thảm hơn bà con lại đua ra kết luận là:
-- Nếu Kinh là kinh hoàng (với cái ý là: Y kinh mà thuyết pháp thì ba đời Chư Phật bị oan!) thì Kệ đích thị là... Kệ Nó!!!.
Thơ mộng hơn:
-- Trên Chùa có cái chuông và có cái mõ: Cái chuông khi đánh lại kêu rằng là: “Buông”! Cái mõ lại kêu là “Bỏ”! và kết luận là: Bên này là “buông”!, bên kia là “bỏ”! Sao cứ không theo mà cứ lăng xăng hoài vậy cà!
Cũng vì lý do đó mà các tu sĩ sau này đều “mắc tội tổ tông”. Cái tội này có công dụng là ức chế tâm lý, không cho hành giả nếm cái mùi hạnh phúc tương đương với trình độ công phu của chính mình. Và một khi đã không có hạnh phúc thì không một ai có thể tiến tu được. Vì cái tâm nó cho đó là những điều Vô Ích và Không Có Lợi! Nhưng nếu tụi mình để ý thì Phật Ngôn lại có đề cập một cách gián tiếp đến những cái hạnh phúc lẻ tẻ này qua câu:
-- Niết Bàn là hạnh phúc cao thượng nhất!
Có nghĩa là nếu đem so sánh với những cái hạnh phúc khác thì Niết Bàn là hạnh phúc nhất. Và để làm cái chuyện so sánh trên thì hành giả phải tích cực hưởng cái hạnh phúc của trình độ tu tập của chính mình vào ngay giây phút này, mà không được xả bỏ.
Về Tinh Tấn Thầy Milarepa đã tóm tắc như sau:
Phải có một bậc Thầy Chân Chính và giáo pháp tối thượng, các con mới thành tựu mục đích của mình.
Về người mẫu thì ở Việt Nam có Anh Sơn. Mời bà con liên lạc với anh ấy lè lẹ lên vì anh ấy cũng đã già rồi. Về giáo pháp thì phải hợp với căn cơ.
Thiền Tông:
Tụi mình cứ thử đọc vài câu công án, nếu mình Ngộ thì OK. Còn nếu không được, thì đi tìm cái khác! Không thôi tốn thời giờ! Vì những công án đó có thể là kim cương cho ai đó, nhưng đối với trình độ của mình thì nó chỉ là đồ Lâm Dố. Theo kiểu thuốc không đúng bịnh.
Tổ Sư Thiền:
Trong đây chỉ có đề cập đến một mặt mà thôi: Đó là chữ Tịch! hay chữ “Như”. Thiết nghĩ: còn thiếu cái “Chiếu”, hay chữ “Lai” nữa! Thì mới đủ bộ. Tránh cái tình trạng là như Thầy gì đó khi chết thì cảnh giới lại hiện ra và Thầy lại phản ứng bằng cách la hét búa xua nhưng lại không ép phê!
Theravada:
Mình phải có người mẫu để nhờ vào kinh nghiệm của họ mà mình có thể vào được các cõi thiền.
Tịnh Độ:
Mình phải có người mẫu và học hỏi ở người này cung cách độ tử bất hủ này.
Mật Tông:
Lại phải có người mẫu rành về một vài đàn pháp, rồi nhờ vào người này mà mình có thể học thành công được.
37592- Tứ Như Ý Túc (6)
HL: Chào các Bạn.
Cái Tinh Tấn Như Ý Túc nó lại tỷ lệ thuận với cái Dục Như Ý Túc. Mình phải rơi vào tình trạng như thí dụ sau đây thì mới mong có ngày thành công được:
Một vị sư rất là giỏi võ thuật cùng với một đệ tử đang dùng đò để đi qua sông. Đang chèo đến giữa dòng sông thì vị sư này ngừng mái chèo và ngoắc chú học trò đến kề bên mình và chỉ xuống dòng nước để nhìn cái gì đó. Học trò làm theo và trong khi chăm chú nhìn về phía Thầy chỉ thì bất thình lình vị Thầy này dùng một thế khoá và nhận cái đầu của người học trò xuống nước! Bọt nước văng lên tung tóe, rồi yếu dần rồi, yếu dần và khi thấy đệ tử ruột của mình vừa ngưng thở thì Thầy nhấc cái đầu của vị này lên và hỏi:
-- Ngay bây giờ con cần gì?
Vừa sặc nước, vừa thoát chết, vừa kinh hoàng, vừa hổn hển, vị học trò may mắn này cố gắng hết sức để trả lời cho Thầy:
-- Con chỉ cần thở mà thôi!
-- Nếu con tu tập cũng với ý đồ như hiện nay con cần thở như vậy thì con không còn bao xa nữa đâu!
Kế đến là Nhất Tâm Như Ý Túc, muốn có chuyện này thì phải nhìn cho rõ cái cuộc đời! Cuộc đời chỉ có công dụng là Khổ vì cái tính chất Vô Thường của nó. Khỏi cần định nghĩa về hai chữ trên: Thế nào rồi mình cũng bị cuộc đời tặng cho mình cái mùi vị này. Nhất Tâm Như Ý Túc chi xảy ra khi mình thấy rõ hai yếu tố này của cuộc đời. Không có cái chánh kiến này thì mình bị cuộc đời nó dẫn mình vào mê hồn trận liền. Dấu hiệu đầu tiên của mình khi bị rơi vào mê hồn trận là tính cách “Không Biết Đủ”.
Nếu “Biết Đủ thì là... giàu nhất!” (Phật Ngôn).
Tất nhiên cái “không biết đủ” cũng là phản xạ để sinh tồn mà thôi. Tất cả các chúng hữu tình đều nhìn về một hướng: đó là đi tìm cái hạnh phúc. Chỗ nào, vui vẻ thì mình ở, chỗ nào buồn chán thì mình đi. Hạnh phúc thông thường là vì “Cái Có” mà ra. Trong câu chuyện hằng ngày, thì mình thấy nó phản phất cái yếu tố này:
- Có sắc đẹp nó dễ gây tình cảm hơn là không có sắc đẹp.
- Có tiền thì nó thoải mái hơn là không có.
- Có công danh thì nó có thớ hơn là khi chưa có.
- Có sức khỏe thì nó... khỏe hơn là cái chắc.
- Có đôi, có bạn thì nó có vẻ đỡ hơn là một mình một bóng.
- Có việc làm thì nó dễ thở hơn là thất nghiệp.
Nhưng mà vì cái tính Vô Thường của cuộc đời nên những cái trên sẽ có ngày tiêu ma và mình sẽ gặp cái khổ là cái chắc. Một yếu tố khác của hạnh phúc là... tình yêu lứa đôi. Qua bài thơ sau đây mà đệ có nghe qua đâu đó hồi ở Việt Nam, bài thơ nói về “Tình Yêu”, đại ý rằng cô tác giả đã nêu ra những tiêu chuẩn mà mình không nên xây dựng tình yêu.
Cô ta nhập đề như sau: Nếu anh có yêu em thì hãy yêu em bằng tình yêu. Vì tình yêu thôi! Chớ đừng vì lý do nào khác.
Sau đó, cô ta lại nêu ra những lý do về sự không bền vững của tình yêu, cô dặn dò tiếp: Vì nếu anh yêu em qua giọng nói, làn da, dáng dấp, cặp mắt, đôi môi, mái tóc, sức khoẻ, tiền bạc và công danh... thì rồi theo thời gian những cái đó nó cũng biến chuyển và một khi nó đã biến chuyển thì tình yêu của anh đối với em nó cũng có ngày theo đó mà biến mất đi. Do vậy mà cô lại kết luận một lần nữa là: Nếu anh có yêu em thì hãy yêu em bằng tình yêu mà thôi. Vì tình yêu thôi, đùng yêu vì lý do nào khác.
Và thật vậy, nếu xây dựng chỉ trên tình yêu mà thôi thì... mình nhất tâm vô cùng, và tất nhiên không có gì mà có thể thay lòng, đổi dạ mình được. Cái tính tốt ở bên trong nó ảnh hưởng rất là lâu dài, nó có thể ảnh hưởng từ kiếp này qua kiếp khác: có khi đệ nhìn ra những người vì ác nghiệp mà hiện nay lại có cuộc sống cô độc! Và cũng có khi đệ lại nhìn ra một vài vị, lại bị ảnh hưởng sâu xa của một tính tốt của người bạn thân của mình vào kiếp trước. Cái yếu tố này lại ngủ ngầm trong tiềm thức của vị này và do đó nó là một trong những động cơ ngăn cản không cho vị này lập gia đình và vì lý do đó mà vị này tôn thờ chủ nghĩa độc thân.
Đủ hiểu cái tính tốt nó quan trọng như thế nào trong tình bạn rồi! Họ có thể Nhất Tâm một cách Vô Thức xuyên qua từ kiếp này qua kiếp khác. Đây là chỉ đề cập đến tình bạn hay tình yêu mà thôi. Tình yêu chín chắn nó làm mình Nhất Tâm như vậy rồi thì Hạnh phúc chín chắn nó ra làm sao.
37635- Tứ Như Ý Túc (7)
HL: Chào các Bạn.
Xin lập lại một lần nữa là:
Tất cả các chúng hữu tình đều nhìn về một hướng: Đó là mưu cầu hạnh phúc. Có nghĩa là sướng thì ở, khó chịu hay khổ thì tự động tìm cách né hay chạy trốn. Như vậy, tất cả những hành động hay mưu đồ nào mà không đưa đến kết quả cuối cùng là sự hạnh phúc đều dẫn đến sự bế tắc. Số người không được hạnh phúc càng nhiều thì những mưu đồ hay hành động trên, sau một thời gian, thì... chẳng còn ai theo.
Vì lý do đó mà tụi mình mới gia nhập vào binh đoàn của những người mưu cầu một sự hạnh phúc cao thượng hơn. Hạnh phúc cao thượng hơn lại rắc rối... như cuộc đời vậy. Dạng tự phát và thường gặp nhất.
Thông thường trong những buổi nói chuyện lợi ích thì giảng sư hay bàn về một trạng thái rỗng lặng nào đó của tư tưởng. Mùi vị rỗng lặng này phảng phất trong các câu chuyện về Thiền hay các phương pháp Thiền. Những hành giả thuộc dạng thông minh thường hay lao đầu vào tập các cách này. Sau một thời gian ủi và húc thì những hành giả can trường này thường rút ra được những kinh nghiệm theo thứ tự tịnh tiến sau đây:
A- Giai đoạn thứ nhất:
1. Có một sự im lặng, nhưng không thể ở lâu trong đó được.
2. Càng tập càng nặng đầu (không thoải mái, không có sự hạnh phúc). Và tụi mình lại biết rằng: Một số rất là đông bị kẹt tại trình độ này. Họ bèn xoay qua cách... tìm đọc và cố gắng tham khảo này nọ. Một số khác “ít hơn”, họ liều mạng làm theo lời của Tổ, Thầy: Họ chăm bẳm nhìn vào “cái không có gì hết đó”! Kết quả là, trong số tu sĩ phải nói là ít ỏi trên: Một số “rất là nhiều” lại bỏ cuộc.
Nhưng cũng có một số “rất là ít” tiến đến trình độ sau đây.
B. Giai đoạn thứ hai:
1. Nếu cứ tiếp tục thì sẽ: Đau đầu dữ dội. Phải ngưng tập ngay. Và sau khi hết nhức đầu thì lại tập tiếp. Cứ như vậy mà tiến tu.
2. Sau đó thì có một sự thảnh thơi trong tâm thức. Ý nghĩ đã có thể im lặng được cả ngày, có khi cả tuần. Nhưng trong thâm tâm thì vẫn tự biết rõ là hành giả chưa đến đích Giải Thoát được. Tình trạng cứ như là: nó còn thiếu thiếu một cái gì đó.
3. Với trạng thái tâm thức như trên: Khi hướng tâm về một đề tài nào thì hành giả đều có một bài pháp về đề tài đó liền. Bài pháp rất là cao siêu và với một ngôn ngữ rất là bình dân học vụ. Như vậy cái “Nhất Tâm Như Ý Túc” theo kiểu trên: nó khó đạt! Vì nó thuộc loại tự phát nên nó rất khó diễn tả và làm cho người thứ hai hiểu rõ được! Thông thường khi đệ... phỏng vấn những vị này thì họ đều đưa đến một kết luận là: Nếu chưa chưa bị đau đầu như búa bổ thì... chưa ăn thua!
37674- Tứ Như Ý Túc (8)
HL: Chào các Bạn.
Như đã trình bày, Khi mày mò đến chuyện “Nhất Tâm Như Ý Túc” thì tụi mình đụng phải hai dạng:
1. Dạng tự phát: Dạng này có khuynh hướng làm cho tư tưởng trở nên im lặng. Và khi tư tưởng được im lặng rồi thì lại xảy ra hai 2 trường hợp sau đây:
1.1. Tâm thức đang ở tình trạng “tầm thường” mà... im lặng: Ở trình độ này, hành giả không còn tính nhậy cảm mà ù lì, ngớ nga ngớ ngẩn, quên trước hụt sau... Do tình trạng bi đát trên mà hành giả càng thực hành bao nhiêu thì lại càng trở nên... nóng tính bấy nhiêu. Sau một thời gian dài khoảng vài ba năm, cho đến có khi cả chục năm sau đó thì: Tự hành giả biết rằng: cách này không thể hữu dụng được.
1.2. Tâm đang ở tình trạng “bất thường” mà... im lặng:
Do phương pháp: Cứ chăm bẳm mà nhìn vào “cái không có gì”! Mà tâm thức đã có thể chuyển biến từ tình trạng tầm thường qua một trạng thái... “bất thường”. Ở trình độ này, hành giả có thể dùng cái tâm “Bất Thường” này khám phá thế giới chung quanh, bằng cách:
Khi hướng tâm về một đề mục nào đó: Thì hành giả đều có một bài pháp về đề mục đó. Kết quả: Hành giả đã được một sự thảnh thơi nào đó trong tư tưởng: Bằng chứng là sự im lặng có thể kéo dài cả ngày, có khi cả tuần. Và tâm thức trở nên rất là nhạy bén. Thế nhưng: Khi tra cứu trong kinh sách thì hành giả lại thấy rằng: trong những sách đó, có nói đến một trạng thái... ánh sáng khi tu thành công. Và vì khi xem xét lại tình hình của chính mình, thì hành giả lại nhận thấy rằng: không thấy có cái ánh sáng nào cả trong trạng thái im lặng tư tưởng trên, mà lại là một trạng thái đen hù và xa thăm thẩm. Do tình trạng này mà hành giả biết rằng mình chưa tu đến đích được. Vả lại ở vào tình trạng im lặng này lại chẳng có... Chư Thiên nào đến... vấn Đạo cả. Như vậy, thì cũng chưa đúng lắm. Tuy vậy vì tình trạng im lặng tư tưởng hiện nay của hành giả, nên hành giả cũng có thể tự cho điểm là: Mình tu tập đã khá rồi.
Kết luận:
Tất nhiên, qua những phân tích trên, mà đệ đã được dịp... phỏng vấn những tu sĩ qua những kinh nghiệm thực tế và thực chứng của họ, tụi mình thấy rằng: Con đường này còn thiếu một tình trạng thứ ba, đó là: Tâm đang ở dạng bình thường mà... im lặng! Và như vậy, phương pháp im lặng tư tưởng theo dạng Tự Phát đến đây là hết. Không thể tiến tu xa hơn được nữa.
37731- Tứ Như Ý Túc (9)
HL: Chào Các Bạn
2. Nay lại bàn đến chuyện Nhất Tâm Như Ý Túc theo dạng trường ốc:
Dạng này có vẻ dễ hiểu hơn, nó có dạng trình tự nhi tiến, đi tới đâu biết tới đó, y như những bản chỉ đường hay là những cột cây số trên quốc lộ vậy. Nếu bạn để ý thì khi lái xe trên các quốc lộ thì lâu lâu lại có những cột có ghi khoảng cách các nơi đến. Căn cứ vào đó thì bác tài sẽ biết được còn bao xa. Cũng vậy, khi tâm mình đang loạn xa ngầu thì mình phải biết cách stop nó từ từ. Y như là đang lái xe với vận tốc nhanh trên một con đường trơn trợt vậy: cách an toàn nhất là thắng từ từ lại, không nên thắng gấp, nếu không sẽ gây ra tai nạn như chơi.
Với dạng “Nhất Tâm Nhu Ý Túc” theo lối trường ốc thì hành giả lại có thể stop từ từ. Vì thuộc dạng trường ốc nên nó có vẻ căn bản hơn cái dạng tự phát. Nó đòi hỏi hành giả phải có một cuộc sống với 4 cái đúng:
Đầu tiên hết là thấy Đúng, từ cái thấy đúng này nó sẽ dẫn đến cái suy nghĩ của mình nó sẽ đúng, do suy nghĩ đã đúng nên khi mình nói thì mình sẽ nói đúng, rồi từ cái nói đúng thì mình lại làm đúng. Cái làm đúng nhất là “cái tự nhiên biết đủ”. Từ cái biết đủ này nó lại dẫn đến cái suy nghĩ sau đây: Cuộc sống văn minh nhất là sống hài hoà với thiên nhiên, không có ý đồ phá hoại thiên nhiên để vơ vét của cải, tự ý tiết kiệm. Dẹp từ từ cái lòng tham, là mục đích của hành giả. Danh từ chuyên môn gọi đây là “Giới”.
Trong khi giữ giới thì sự loạn động bắt buộc phải yếu đi. Sau một thời gian giữ giới thì hành giả có thể Stop những hành động tàm xàm cố đế của mình như nói láo hại người, lấy của không cho, đòi hỏi quá đáng... tóm lại cuộc sống trở nên giản dị, ít những nghi thức màu mè. Con người trở nên dễ thông cảm, dễ tha thứ và dễ... quên hơn (ở đây, là quên những chuyện không đáng chuyên, nhưng lại nhớ rất là dai những chuyện mà mình đang chuyên.
Trong dây chuyền sản xuất các Thánh Nhân của Đức Phật, Ngài đã dùng chính kinh nghiệm bản thân của mình để chỉ đường cho những ai có tai để nghe và có ý chí để làm. Ngài đã xem xét rất là kỹ cái trạng thái đi truy tìm cái Hạnh Phúc của các chúng hữu tình. Ngài đã thấy họ chỉ dùng cái thô thiển nhất là cái biết của những giác quan: Hễ mà giác quan cảm nhận có sự thoải mái tạm thời nào đó thì lại có một số các chúng hữu tình bu lại cái trạng thái đó.
Đến độ, khi làm người họ đã vội vàng kết luận:
Đời sống chỉ cần có Tiền + Đàn Ông (hay Đàn Bà) + Công Danh hay Thế Lực.
Nhìn lại những tiền kiếp của chính Ngài, Ngài lại thấy chính mình cũng đã từng chạy theo và đã từng ngụp lặn trong những cái hạnh phúc khi có, khi không; khi còn, khi mất đó... và cái trò chơi cút bắt này nó cứ kích thích và lôi kéo vào cảnh luân hồi. Dưới cây Bồ Đề, Ngài đã theo dõi những cuộc đời của những ông Vua, những người mà tất cả đều cho rằng đây là cuộc sống lý tưởng vì chỉ khi đến đây (làm Vua) thì mới có đầy đủ ba yếu tố trên:
Tiền + Đàn Bà và Đàn Ông Công Danh và Thế Lực.
Ngài đã... cứng họng, không biết tâm sự cùng với ai... khi thấy chỉ vài ba kiếp sau thì chính những vị này, những vị mà trước đây một thời hét ra lửa thì nay lại thành những người với những khuyết tật trên thân thể: Khùng khùng, điên điên; nghèo khổ, làm tôi mọi cho thiên hạ với một thân hình bại liệt và một đầu óc u tối... Ngài đã kết luận: Đây là Khổ, đây là con đường dẫn đến Cái Khổ.
Cũng dưới cây Bồ Đề, khi Ngài hướng tâm về những cách từ bỏ cuộc đời của những người lợi căn, của những người đã ớn tới tận cổ cái cuộc sống quá khổ cực này, thì Ngài lại thấy với sự tận tâm cố gắng sống thật là đàng hoàng, suy nghĩ thật là tốt lành thì sau khi chết ở đây thì họ được thoải mái ở những chỗ khác. Thế nhưng những sự thoải mái này chỉ là tạm bợ, vì sau một thời gian thì họ cũng lại rơi xuống đây và rốt cuộc họ cũng bị khổ như thường. Thấy được như vậy, Ngài cũng cứng họng, không biết tâm sự cùng với ai! Ngài đã kết luận đây là Khổ, đây cũng là con đường dẫn đến cái Khổ!
Tứ Như Ý Túc (10)
Chào các Bạn.
Sau khi Đức Phật tìm thấy cả hai con đường trên đều dẫn đến cái Khổ, Ngài mới biết rằng, các chúng hữu tinh đều không đi đúng hướng:
Một con đường, thường gọi là đường đời, thì chỉ lo thỏa mãn các giác quan qua các ngõ hẻm như:
Ăn ngon, mặc đẹp, nhà to, cửa rộng, công danh, sự nghiệp, chức vụ, bạn bè, phe nhóm...
Một con đường khác, thường gọi là đường tu hành, vốn là những phương pháp kiểm tra tư tưởng, và trong khi sinh hoạt hằng ngày thì chỉ hành thiện mà không làm ác. Con đường này tuy rất là hay và khá hơn con đường trước, nhưng cũng bị bế tắc vì tính cách loạn động của tâm thức. Và nếu cả thắng được sự loạn động này thì hành giả lại gặp phải cái tuổi thọ của các Cung Trời. Do sự không bền vững này mà cuối cùng: hành giả lại bị đắm chìm trở lại “cái khổ”. Nguyên do là những tu sĩ này chưa phá được cái bản ngã. Chỉ có Ngài là người độc nhất đã tìm ra Con Đường Giải Thoát, mà cái bước khó khăn đầu tiên nhất là “Sự Nhất Tâm”.
Trong vấn đề này, Ngài lại thận trọng quan sát hết tất cả các cõi, các từng trời trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới thì Ngài nhận thấy rằng: có rất nhiều cách tập để được cái gọi là “Nhất Tâm”:
Như cách tập trung tư tưởng vào một giác quan (như đầu lỗ mũi, cuối cuốn lưỡi, vào cái nghe...), hay một nơi nào đó trên thân thể thì các tu sĩ này chỉ lòng vòng trong các cõi Dục Giới! Ở đây, cho dù là họ ăn uống sang trọng và tinh khiết như thế nào đi nữa, và cho dù họ làm đến chức vụ gì đi nữa: Họ không thể nào thoát được cái chuyện là vẫn còn gặp hai giống đực và giống cái, họ vẫn phải ăn uống và cần phải giao dâm.
Còn cách tập trung tư tưởng vào chỉ một điểm ở ngay đằng trước mặt lại là cách “Nhất Tâm” hay nhất.
Trong lúc thực hành cách thức trên: Ngay từ đầu, hành giả đã xa lìa được tham dục và đồng thời xa lìa được luôn các bất thiện pháp. Chỉ cần thay đổi một chi tiết nhỏ này thôi mà một chân trời hoàn toàn mới lạ được mở ra: Những chúng hữu tình này không còn là giống đực hay giống cái nữa, họ không còn ăn uống và tất nhiên là họ không cần luôn cả sự giao dâm. Do xa lìa được các bất thiện pháp này, nên tâm thức họ lại càng an vui và càng hạnh phúc hơn những chúng hữu tình ở các cõi Dục Giới.
Thật vậy, bây giờ thử so sánh một cái việc “diệt dục” ở hai cung trời này.
Ở Dục Giới có nhiều phương pháp tu để loại trừ cái chuyện này, trong đó lại có hai cách nổi tiếng nhất là:
1. Luyện luồng Hỏa Hầu (Kundalini) bằng một cách thở đặc biệt mà nhà viết sách nổi tiếng về Yoga ở Việt Nam là Swami đã gọi là “hơi thở trong xương”. Cách này phải có Thầy, nếu không là bị “tẩu hoả, nhập ma”.
2. Luyện “Thánh Thai“ để có thể tồn tinh, dưỡng khí, khí dưỡng thần. Cách này nếu lở bị trợt chân, và bị té ngồi thì cũng tiêu đời trai! Chưa kể cái chuyện phải luôn luôn kềm chế cái chuyện thèm muốn về dục vọng. Cả hai phương pháp trên mà chỉ cần lơi là một tý và để “con dê” nó sổ lòng là có thể nói rằng: Từ 7 tuổi đến 77 tuổi, đây đều không tha!
Hai phương pháp trên đều nguy hiểm chết người cho cả hai phía (phía người tu và phía những người lai vãng chung quanh).
Còn ở Sắc Giới thì môi trường sống của nó đã là “Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp” rồi nên cái chuyện diệt trừ dục vọng theo trình độ thô sơ nhất là chuyện làm tình, trai gái đã bị lung lay tận gốc rễ. Khi hành giả chỉ cần tập trung vào một đề mục đằng trước mặt.
Nay thử so sánh thêm một lần nữa: Trong khi ở Dục Giới, vì còn ở trong môi trường tràn đầy dục vọng, nên hành giả phải châm chú, thận trọng và kềm chế một cách rất là vất vả và rất là khó khăn sự thèm khát về vấn đề trên! Thì ở Sắc Giới: hành giả lại tự động không thèm để ý đến cái chuyện đó vì đã có sự Hỷ và Lạc trong lúc nhập Chánh Định trên một đề mục ở ngay đằng trước mặt rồi! Theo cái kiểu: Càng châm chú vào đề mục bao nhiêu thì lại càng ly dục bấy nhiêu, càng ly dục bấy nhiêu thì lại càng hạnh phúc bấy nhiêu! Cái này nó làm nhân cho cái kia! Nên trên thực tế, khi hành giả lọt vào được Hữu Sắc rồi thì tự động có hai hiện tượng tất nhiên xảy ra đồng thời là: “Ly Dục, và ly Bất Thiện Pháp”.
Tuy nhiên: Nói là nói như vậy chớ ở trình độ “Chứng” thì hiện tượng “ly dục, và ly bất thiện pháp” chưa được rõ ràng cho lắm! Nhưng đến khi “đắc” rồi thì hai hiện tượng này lại hiện tiền một cách dễ dàng. Và dĩ nhiên, đây mới là “Nhất Tâm Như Ý Túc”.
Tứ Như Ý Túc (11)
Quán Như Ý Túc
Chào các Bạn!
Đa số khi đi tầm sư học Đạo đều chỉ nhắm vào cái kiến thức, cũng như là khả năng biện luận của một vị Thầy. Họ thường đi đến những buổi thuyết giảng với số người tham dự rất là đông đảo, ở đó có những vị Thầy đã từng đậu bằng Tiến Sĩ Phật Học, thông thạo rất là nhiều ngôn ngữ, hay là những vị Thầy hiện đang là Quốc Sư được chính quyền đương thời nể phục. Họ chuyền tay nhau những băng giảng về đủ loại đề tài với những trích đoạn hay trích dịch từ những cuốn sách nổi tiếng trên toàn thế giới.
Họ lại có thói quen: Tự đóng khung bằng cách hay nghe đi, nghe lại những đề tài mà họ... thích nghe mà thôi, đối với những chuyện vượt ra ngoài sự suy luận của họ thì họ cho đó là chuyện "tà đạo", chuyện "ma quỷ"... Tóm lại họ nghe toàn là những đề tài về cái "Không", còn những đề tài về cái "Diệu Hữu" thì hình như là không được bàn đến, và tất nhiên là ai muốn hiểu ra sao đó thì cứ việc hiểu theo ý thích của mình.
Nhưng lại có một số rất là ít, khi đi tìm một vị Thầy thì lại để ý đến trình độ tâm linh của vị Thầy đó. Họ đòi hỏi vị Thầy đó phải có những khả năng siêu thế gian, một cái nhìn thấu thị, và một trí tuệ vượt ra ngoài sách vở. Một cái gì đó ở trong lòng họ đã làm cho họ hiểu rằng: Để có khả năng... sáng tác ra Tam Tạng Kinh Điển, Đức Phật chỉ cần có Lục Thông.
Và cũng từ cái gì đó trong lòng họ đã cho họ biết rằng: Để độ 1250 vị A La Hán trong vòng có 50 năm thuyết pháp, Đức Phật chỉ cần có một "cái nhìn thấu thị".
Khác hẳn với số đông ở trên: Họ chỉ muốn thành Phật với Lục Thông và một cái nhìn thấu thị! Tóm lại một ông Phật với những cái "Có "! Chớ không phải là một Đức Phật với một cái "Không nhưng lại là diệu hữu" một cách thật là... khó hiểu. Một cái gì đó trong lòng họ đã cho họ biết rằng đây mới là cách học ở cái gốc. Vì nó có thể thâm nhập được trong mọi trường hợp khi tiếp xúc với đời sống của các chúng hữu tình!
Cái nhìn thấu thị cũng được gọi là cách "quán như-ý-túc".
Ghi tới đây, đệ lại nhớ đến một chuyện nhỏ đã xảy ra ở Đà Lạt tại nhà của một cư sĩ trồng hoa lan nổi tiếng ở Đà Lạt, chuyện rằng:
Thật là đáng nể khi hành giả vừa ngồi xuống, thì vị cư sĩ ngồi trước mặt đã cho biết rằng:
- "Khi anh đang đi vào đầu ngõ là tui đã biết từ tối hôm qua rồi, tui đã ghi vội lên tờ lịch mà tui kẹp trong cuốn kinh đây! Rồi tu sĩ đi lên lầu và sau đó đi xuống và đưa cho hành giả một cuốn kinh "Kim Cang" có kẹp một tờ lịch. Trên đó có ghi rất là vội vàng: hành giả tên gì, bận đồ gì khi tới đây, lúc mấy giờ.
Tất nhiên là tất cả đều đúng phóc!
Hai Lúa đệ cũng có mặt tại nơi đó.
Thế nhưng sau đó thì câu chuyện lại lạt phèo chẳng có gì là cao siêu, toàn là "Tánh Không", toàn là cái "uyên nguyên", toàn là những trích dẫn của Kinh này, sách nọ... Sao mà nó ... lý thuyết quá! Nếu so với sự chính xác của cái thấy vừa rồi của vị cư sĩ!
Từ đó, đệ lại nghi ngờ những khả năng đặc biệt mà những tu sĩ có thể biểu diễn khi đàm đạo. Và đệ chỉ nghi ngờ mà thôi chớ không thách thức ai. Sau này nhờ tinh tấn tu hành nên đệ có quay lại những trường hợp mà đệ đã gặp khi đi đàm đạo. Hầu như chỉ là xảo thuật, không có thật! Chuyện kể trên trở nên thật là lố bịch khi đệ thấy rõ ràng vị cư sĩ đó đi lên lầu, xé lấy một tờ lịch và ghi vội những điều trên rồi kẹp tờ lịch vào cuốn kinh, rồi đi xuống đưa cho vị hành giả nọ!
Sau đó đệ có tới nhà vị đó và biểu diển thần thông thứ thiệt cho vị đó coi và nói rằng:
- Anh đừng nên lừa người ta nữa, chuyện gì mình làm được thì cứ nói là làm được, còn chuyện gì không làm được thì đừng có làm ẩu, nó giảm phước báu của mình khi mình tự tu, tự chứng trong đời mạt pháp này.
Ngoài một vài xảo thuật như vừa kể trên: đệ cũng còn biết những cách thức quán như-ý-túc của vài cung trời:
0. Con Người mà đòi... quán như ý túc thì chỉ toàn là những suy luận, tư duy, so sánh dữ kiện, góp nhặt kinh nghiệm, dự trù... Tất nhiên đây chỉ là đơn thuần là những suy nghĩ mà thôi, chớ không phải là quán.
1. Quán Như Ý Túc với trình độ Tha Hoá Tự Tại.
Đây cũng không phải là quán mà chỉ dùng cái linh tính mà thôi. Khi thô tâm đã thanh tịnh rồi thì cái linh tính trở nên bén nhạy, tu sĩ lại có linh tính khá đúng về những hiện tượng trong một tương lại gần.
Huynh KKT lâu lâu lại ghi rằng: không hiểu tại sao mà khi tui hỏi như vậy thì tui lại biết ngay rằng Huynh sẽ hỏi như vầy, như kia ... Đây là hiện tượng thô tâm đã tạm yên. Độ chính xác chỉ là 70% là hết cỡ.
Quý vị có đi bói toán qua các cuộc lên đồng thì sẽ chứng kiến cái cảnh khi những vị nhập xác này tiên đoán về tên của người coi. Vì đệ tên là Phước, nên họ sẽ tuyên bố rằng:
- Tên anh khởi sự bằng chữ P phải không?
Và chỉ có tới đó mà thôi, và dĩ nhiên đó là hết mức, họ không thể nào đoán tiếp được nguyên cả cái tên của đệ. Khi gặp hiện tượng tương tự như vậy thì quý Bạn nên nhớ là đây là trình độ của Tha Hoá Tự Tại.
2. Quán Như Ý Túc với trình độ Hữu Sắc
Cái này đã từng là chuyện thường tình của bọn lu bu (nhóm tu hành của anh HL). Họ dùng thiên nhãn, và thiên nhĩ, hay tha tâm thông để tìm cách chọn một pháp môn nào đó, hay là một đề mục thích hợp cho từng cá nhận Họ có thể tìm ra những khuyết diểm của hành giả trong khi tu tập... tuy nhiên, những hiện tượng trên chỉ có chính xác đến 95% là hết mực. Sự chính xác sẽ tiến xa hơn nữa khi họ vào các Bậc Thánh (Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán) hay có đôi lúc vì đúng nhân duyên nên sự chính xác cũng rất là cao.
3. Quán Như Ý Túc với trình độ Vô Sắc
Sự nhậy cảm ở trình độ này rất là cao cấp. Có thể nói là đối tượng sẽ... trần truồng khi họ dùng cách quán này. Đến trình độ này thì tu sĩ có thể biết một cách tường tận:
- Tâm còn tham, biết rõ là tâm còn tham.
- Tâm còn sân, biết rõ là tâm còn sân.
- Tâm còn si, biết rõ là tâm còn si.
- Tâm đã nhập được Chánh Định, biết rõ là tâm đã nhập vào Chánh Định.
Nhưng chỉ có một điều là hành giả không biết đó là: trình độ tâm Giải Thoát. Tất nhiên, khi đã vào được các Bậc Thánh thì sẽ biết được trở ngại trên.
4. Quán Như Ý Túc với trình độ Đức Phật:
Anh Sơn (ở Đà Lạt, VN) có một cách quán là nhìn ra được luồng Bhavanga của đối tượng và anh ấy cũng tự sắp xếp, và hệ thống hoá những biểu hiện của luồng Bhavanga. Vì vậy mà anh ấy có thể biết được các khuynh hướng ngủ ngầm của đối tượng, cũng như những trở ngại mà thông thường đối tượng không thể vượt qua được nếu không tận lực cố gắng!
Đệ lại có một cách quán để cho tình trạng "Ngộ Đạo" được lặp lại nhiều lần theo ý muốn của hành giả (Điều mà sách Vi Diệu Pháp có nói là kinh nghiệm "Ngộ Đạo" hay "Nhập Lưu" chỉ có thể xảy ra một lần duy nhất trong một đời người mà thôi). Và khi càng bị lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, hành giả lại có thể vào được những "Bậc Thánh" cao hơn. Phương pháp là hành giả nhìn vào luồng Bhavanga của các Đức Phật trong khi hành giả Tự quán đảnh (cô bé DP ở Utah) hay vào các Mạn Dà La (cũng là cô bé DP ở Utah). Cô bé trình bày lại là khi làm như vậy thì lại bị ngầy ngật y như khi Ngô Đạo nhưng càng lúc cường độ lại càng mạnh hơn.
Mến
Hai Lúa :-)