
53. Chánh Định
Tập Tin III
Bài 53. Chánh Định
40568- Chánh Định
Sep 11, 2006
HL: Chào Huynh lbt cùng Các Bạn.
Trong con đường đi đến sự Giải Thoát, tất cả bọn mình đều dựa vào cái sườn là: "Giới, Định, Huệ" hay chi tiết hơn lại là "Bát Chánh Đạo" còn được gọi là con đường tám cái chánh) đó là:
- Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
- Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
Tuy là... chi tiết nhưng nó lại thiếu đi cái thứ chín (9) đó là cái Chánh Huệ. Trong ba cái đầu (Giới, Định, Huệ), bọn mình cũng hiểu một cách đại khái là: Phải là một con người tốt và hiền lành (tức là cái Giới), thì mình mới có thể đạt được một sự thảnh thơi nào đó trong tâm thức (tức là cái Định), và nhờ vào sự thảnh thơi này mà mình có được cái sự sáng suốt trong ý nghĩ, lời nói và việc làm (có nghĩa là cái Huệ).
Thực tế, khi mình đem những tiêu chuẩn trên và áp dụng vào những người mà mình thấy họ có đầy đủ những tiêu chuẩn đó. Dĩ nhiên, tụi mình nhận thấy rằng những người tốt bụng và hiền lành này cũng có một cuộc sống yên bình, thể hiện qua một trạng thái tâm lý khá trầm lặng.
Thế nhưng: Vì họ không có cái "Huệ" nên họ chưa thành Phật. Để thành Phật thì mình phải đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn hơn nữa.
40591- chánh định (tiếp theo và... chưa hết)
Trong con đường "tám cái chánh":
1. Chánh Kiến
2. Chánh Tư Duy
3. Chánh Ngữ
4. Chánh Nghiệp
5. Chánh Mạng
6. Chánh Tinh Tấn
7. Chánh Niệm
8. Chánh Định
Sáu cái đầu, chỉ có được khi người đó rất là tốt bụng và thật là hiền hậu, sống theo cung cách "Biết Đủ Là Giầu Nhất". Tất nhiên, nếu cố gắng hết mình thì những thói quen xấu như:
1. Thói quen thấy sai, hay thấy lộn (tà kiến).
2. Thói quen suy nghĩ sai, hay suy nghĩ chưa... tới (tà tư duy).
3. Thói quen nói sai (hay nói xạo hại người, nói tầm xàm,...) (tà ngữ).
4. Thói quen chôm chỉa, lấy của không cho,... (tà nghiệp).
5. Thói quen nuôi thân mạng một cách bất chánh (tà mạng)
6. Thói quen biết đó là sai lầm mà vẫn cứ làm (tà tinh tấn) sẽ tự biến mất theo thời gian!
Lý do là vì: Trên đây chỉ là những... thói quen hay là những tập quán, mà tập quán thì có thể thay đổi nếu mình chịu khó theo dõi nó. Như vậy chỉ còn hai cái "Chánh" cuối cùng là không có sử dụng trong đời sống hằng ngày của "Con Người". Con Người hay hiểu "Chánh Niệm" theo kiểu "Chánh Tư Duy" (Suy nghĩ chơn chánh).
Trong kinh sách Đạo Phật khi bàn về Vipassana hay là rõ hơn: trong cách tu của Bi Quai Bà Bà (chị BY): Chánh niệm lại mang ý nghĩ là "theo dõi" hay chuyên môn hơn là "nhìn vào nó" có khi lại... "coi nó đi tới đâu", hay chuyên môn hơn, nhìn vào nó để thấy rằng: tất có đều có một cái "Thật Tướng," đó là: Rồi nó cũng chết!
Làm được như trên thì cũng hay nhưng lại hơi... "mất gốc". Thật vậy, tuy rằng tâm nó có thanh tịnh khi nhìn vào bên trong như vậy, nhưng cũng chưa có cách nào để có thể phát triển được cái Trí Tuệ hay còn gọi là... Cái Biết Của Đức Phật! Nên nhớ: Cái Biết này là cái rừng Cái tui Biết là cái rừng kia kìa, còn cái tui nói ra cho mấy ông nghe đây chỉ là cái nắm lá cây này mà thôi! (Phật Ngôn).
Trời Đất! Nguyên cả Tam Tạng Kinh Điển chớ có phải... ít oi gì đâu nè! Cả cái đống kinh sách đó mà chỉ mới là cái nắm lá cây mà thôi!
Mở ngoặc:
Vì lý do trên, nên trên đường thành Phật thì tụi mình bắt buộc phải có cái biết tương tự, có nghĩa là: Nếu "không biết được hết cái rừng" thì ít ra cũng phải là phân nửa (1/2) hay ba phần tư (3/4) cái sự hiểu biết của Ngài. Như vậy, với... "Chánh Tham" hay cái "Chánh Vọng" cỡ đó! Hay đúng kỹ thuật hơn là: Phải phát Bồ Đề Tâm cỡ đó thì mới khá được. Nếu so sánh với các kiểu phát Bồ Đề Tâm một cách khơi khơi, và không rõ ràng như trong Kinh Sách thì cũng chưa đầy đủ lắm.
Đóng ngoặc.
Nay lại trở về cái "Chánh Niệm" thì... chắc rằng phải có một cách khác, hiệu quả hơn chăng?
40714 & 40717- Chánh Niệm trong Vipassana.
HL: Lu bu nhiều chuyện tào lao thiên đế nên đệ lại trễ nải cái chuyện bàn tiếp về cái Chánh Niệm. Tất nhiên, là có ba cách thực hành Chánh Niệm. Đây là cách thứ nhất và cũng là lâu đời nhất.
Sự quan trọng của Chánh Niệm.
Kinh Đại Niệm Xứ
Thiền Sư U Silananda
Nita Truitner dịch Việt
Vài lời của người dịch.
Từ lâu tôi luôn nghĩ rằng thực hành thiền Minh Sát là hành Chánh Niệm. Kinh nghiệm hành thiền và học thiền của tôi rất giới hạn gồm có thiền Minh Sát theo truyền thống của Ngài Mahasi Sayadaw, (Thiền sư U Pandita, và Thiền Sư Khippapanno). Gần đây tôi có được cơ hội học được phương pháp Niệm Cảm Thọ của Thiền Sư Cư sĩ S.N. Goenka. Duyên may đưa đến năm nay tôi được đi học thiền "Niệm Tâm" ở thiền viện của Cố Hòa Thượng Thiền Sư Shwe Oo Min, Miến Điện. Tuy còn sơ cơ về pháp hành, tôi nhận xét tất cả những gì mà tôi thu thập được trong những phương pháp hành thiền kể trên, tôi nghĩ rằng, tất cả đều là thực hành chánh niệm và phương pháp hành thiền là theo trong kinh Tứ Niệm Xứ. Mỗi một Thiền sư danh tiếng tự chọn cho mình một "chuyên môn" theo kết quả kinh nghiệm cá nhân, nhưng chung quy vẫn là thiền Tứ Niệm Xứ hay Thiền Minh Sát, hay Vipassana. Hiện nay danh từ Vipassana thường dùng để chỉ thiền Minh Sát, hay Tứ Niệm Xứ, rất phổ thông trong cộng đồng tu thiền.
Tôi rất muốn diễn đạt sự hiểu biết ít nhiều về lý thuyết cũng như thực hành thiền, cho vài đạo hữu mới vào học thiền, nhưng không biết làm cách nào để diễn tả giáo lý và thực hành một cách rõ ràng minh bạch và gần với sự thực. May mắn thay, mới đây tôi mới có dịp đọc một quyển sách nhỏ tựa đề là "The Importance of Mindfulness", phía dưới đề là:
"The Mahasatipatthana Sutta" của Hòa Thượng Thiền sư U Silananda viết, tôi vô cùng hoan hỉ vì sự giảng giải ngắn gọn nhưng rõ ràng minh bạch về nghĩa lý hàm chứa trong Kinh, rất gần với như sự hiểu biết và nhận xét của tôi về lý thuyết cũng như về thực hành thiền Minh Sát.
Trong tập sách nhỏ ấy, Hòa Thượng Thiền Sư kết luận rằng, hành thiền Tứ Niệm Xứ tức là hành Chánh Niệm. Một điều tôi muốn được ghi nhận ở đây khi Thiền Sư nói rằng "thiền Minh Sát có thể đạt đến hai loại diệt trừ phiền não đó là sự diệt trừ từng chập và sự diệt trừ tạm thời, nhưng thiền Minh sát không thể đạt được sự diệt trừ thứ ba đó là sự diệt trừ phiền não toàn diện." (trang 23 bản tiếng Anh) Thoạt đầu tôi không hiểu rõ hàm ý câu nói trên, vì nếu thiền Minh Sát không đạt được sự diệt trừ phiền não toàn diện thì phương pháp nào hiệu quả hơn để giúp hành giả diệt trừ phiền não toàn diện và chứng ngộ Niết Bàn? Phải chăng đó là sự liên tục và tích cực thực hành chánh niệm đến một mức độ nào đó khi trí tuệ tột cùng phát sanh tâm đạo lấy Niết Bàn làm đối tượng?
Một điểm quan trọng khác mà tôi muốn ghi nhận ở đây là Thiền Sư U Silananda nói rằng (trang 19 trong bản tiếng Anh) chữ si - "moha" trong tiếng Pali, không được nói đến ở đây vì si (moha) rất khó để ngăn ngừa và diệt trừ. Tuy nhiên có thể moha được hàm chứa. Trong trang cuối quyển sách nhỏ nầy, Thiền Sư U Silananda đã hàm ý nói đến si (moha), khi Ngài nói đến thực hành thiền Vipassana. Khi thực hành thiền Vipassana, hành giả sẽ được phát sanh trí tuệ để thấy rõ tam tướng vô thường, khổ, vô ngã. Si (moha) mê có nghĩa là sự thiếu trí tuệ, thiếu chánh kiến, để thấy rõ tam tướng vô thường, khổ, vô ngã. Mục đích của thiền Vipassana là để phát sanh trí tuệ, khi trí tuệ phát sanh thì si mê tiêu diệt, cũng như khi có ánh sáng thì bóng tối biến mất. Tuy không nói nhiều về Vipassana trong quyển sách nhỏ nầy, thiền Sư U Silananda đã viết và giảng rất nhiều về thiền Vipassana trong những khóa tu thiền.
Để giải thích sự diệt trừ phiền não toàn diện, những thiền sư hiện đại phải "giới thiệu" danh từ Vipassana một danh từ vừa có nghĩa minh sát (hay trí tuệ), vừa để giải thích vì sao hành thiền Tứ Niệm Xứ để tận diệt ba phiền não: tham, sân và si, và là "con đường duy nhất..." theo như phần đầu trong kinh đã khẳng định.
Chúng ta phải hiểu rằng kinh Phật dạy chỉ là một "chỉ nam", một "dàn bài," chớ không phải một bài giảng chi tiết cho một phương pháp. Thí dụ Thiền Sư U Silananda có nói rằng trong đoạn nói về tâm định một yếu tố quan trọng trong ngũ căn, tâm định mặc dù không có được nêu lên trong kinh Đại Niệm Xứ, nhưng ta phải hiểu rằng tâm định được hàm chứa, vì nếu không có tâm định thì ta sẽ không có tỉnh giác vân vân... Ngài cho thí dụ một người thợ săn nai chỉ thấy dấu chân nai rõ ràng ở hai bên của tảng đá, người săn nai phải kết luận rằng con nai phải chạy ngang qua tảng đá.
Nếu không giải thích rõ ràng, thiền sinh sẽ dễ ngộ nhận cho rằng thiền Tứ Niệm Xứ và thiền Vipassana là hai phương pháp hành thiền khác nhau.
Thay vì tự vặn óc để viết lên sự hiểu biết của tôi về chánh niệm là pháp hành thiền minh sát, tôi phát tâm hoan hỉ tự nguyện sẽ cố gắng dịch tập sách nhỏ nầy ra tiếng Việt để chia sẻ với bà con mới vào học thiền. Tuy là quyển sách nhỏ, nhưng nó rất căn bản và là một kim chỉ nam cho những ai mới bắt đầu học thiền và hành thiền và cũng rất lợi ích cho cả những thiền sinh kinh nghiệm.
Nita Truitner
Minnesota, Mùa Thu sang Đông 2003/
Đoạn mở đầu của Kinh Đại Niệm Xứ
"Nầy Chư Tỳ Khưu, đây là con đường độc nhất đưa đến sự thanh lọc cho chúng sanh, vượt khỏi sự sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn, đó là Tứ Niệm Xứ.
Thế nào là bốn?
Nầy Chư Tỳ Khưu, ở đây:
- Vị Tỳ Khưu sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
- Vị Tỳ Khưu sống quán thọ trên thọ, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
- Vị Tỳ Khưu sống quán tâm trên tâm, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
- Vị Tỳ Khưu sống quán pháp trên pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời".
Đoạn trên trích ra từ một trong những bài kinh của Đức Phật tựa là: "Bốn lãnh vực quán niệm"; theo Phạn ngữ Pali, kinh nầy gọi là "Mahasatipatthana Sutta" (Đại Niệm Xứ).
Tuy là đoạn mở đầu, đoạn kinh nầy đã tóm tắt cốt tủy của toàn bài kinh.
Chính Đức Phật đã thực hành và công nhận rằng có sự lợi ích sẽ đem lại cho hành giả. Sau đó Ngài khuyến khích các thầy Tỳ Khưu và các đệ tử của Ngài thực hành pháp môn Tứ Niệm Xứ, và trong suốt 45 năm truyền bá giáo pháp, Đức Phật luôn luôn đề cập dẫn chứng và nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh Tứ Niệm Xứ.
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn những phương pháp thực hành được góp nhặt và ghi chép lại trong tạng kinh Pali.
Những ai thực hành Tứ Niệm Xứ hay thiền Minh sát phải hiểu một cách rõ ràng và đúng đắn đoạn kinh nầy. Thực vậy, tất cả những bài giảng dạy, chỉ dẫn hành thiền tại các khóa thiền Vipassana đều căn cứ từ kinh Đại Niệm Xứ. Cho nên để được gặt hái trọn vẹn sự lợi ích, các thiền sinh thực hành thiền Minh Sát nên đọc và hiểu rõ ràng và thấu triệt bài kinh quan trọng nầy.....
HL: Chào các Bạn.
Tuy rằng đệ không phải là chuyên khoa về vipassana nhưng đệ lại cũng có tập thử qua loa. Và sau đây là một vài kỹ thuật để gọi là bổ túc những điều còn thiếu sót trong bài "Sự quan trọng của Chánh Niệm" của Ngài U Silananda.
Khi "quán thân trong thân" trong trường hợp quán về sự đau đớn, đệ có nhắm mắt làm thử theo y như kinh nói. Đệ thấy không bớt đau. Nhưng khi cái đau nó đến tột cùng (xuất hạn mồ hôi). Thì nó tự giảm. Thoạt tiên, đệ tưởng rằng đây là kết quả của vipassana!
Nhưng khi đệ nghe câu chuyện của anh "Điền Tà" diễn tả về cái đau khi anh này tự tử bằng cách uốn một nắp đầy loại thuốc sâu hiệu "Mitox", thì anh ta cũng cảm thấy rằng cái đau, khi nó lên tới tận cùng (Đến độ phải... nhảy tuýt) thì nó lại tự giảm dần và nó hết đau. Và sau một thời gian thì nó lại đau lại, rồi lại... nhảy tuýt, rồi lại hết đau. Và cứ hết chu kỳ này, lại đến chu kỳ khác.
Sau này đệ lại đau răng và đệ dùng cách khác để "quán thân trong thân". Kỹ thuật như sau:
1. Nhắm mắt 100%, tưởng tượng ra cái miệng hả ra và thấy rõ vị trí của cái răng đang đau
2. Niệm "Đau à! Đau à! Đau à!"
3. Cảm giác cái răng trong miệng đệ nó giật giật hai ba lần và ngay sau đó là một cảm giác tê rần. Rồi cơn đau biến mất ngay lập tức.
4. Vợ đệ phải kinh ngạc vì cái tính giảm đau thần kỳ của "Phép Lạ Vipassana".
Và cũng từ đó đệ mới biết rằng:
Khi "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt" thì phép lạ liền xảy ra. Kế đó, là cảnh "Tức nước vở bờ":
"Quán Pháp trên Pháp":
1. Nhắm mắt 100%, tưởng tượng cái tư thế mình đang nằm/ngồi trên ghế hay trên giường. Khi đã thiện xảo về phép "An Trú Chánh Niệm Đằng Trước Mặt" rồi thì hành giả có thể mường tượng ra cái thân mình đang đi trên hè phố.
2. Niệm: "Buồn à! Buồn à!"
3. Cảm giác buồn rầu y như cái bánh xe bị xì hơi: Cảm giác buồn nó giảm một cái... vèo! Đúng là phép lạ Vipassana
4. Hành giả được ngay cái tính miễn nhiễm ở trình độ buồn này.
Có nghĩa là Hành giả sẽ bị buồn lại và chỉ buồn khi cái buồn nó nặng nề hơn tình trạng này. Còn nếu nó nhẹ hơn hay bằng thì cũng chỉ mỉm cười và dư sức qua cầu.
Như vậy, hai cách quán kia cũng cùng công thức.
TB: Cũng y như Ngài U Silanda đã đề cập: Chánh Định lại nằm ngay trung gian của Chánh Niệm và Chánh Huệ nhưng Ngài lại không miêu tả cái kỹ thuật nó ra làm sao.
40723- Một số ứng dụng về Vipassana
HL: Tật hay nghĩ bậy, hay còn gọi là phóng tâm:
1. Nhắm mắt 100%
2. An trú Chánh Niệm đằng trước mặt bằng cách: tưởng tượng ra cái tư thế của chính mình (tư thế nằm hay ngồi) trên ghế hay giường.
3. Khi mình đã thấy rõ tư thế của mình rồi thì Niệm: Nghĩ bậy à! Nghĩ bậy à!
4. Cảm giác rúng động toàn thân, và liền sau đó là sự thanh tịnh.
Giải thích: khi an trú Chánh Niệm ra đằng trước mặt thì Thô Tâm và Vi Tế Tâm cùng hoạt động đồng bộ (Sự đồng bộ này sẽ ảnh hưởng đến cái hình ảnh mà Hành Giả thấy được. Có nghĩa là sự đồng bộ càng mạnh thì hình ảnh càng rõ ràng. Và khi mình niệm một tình trạng mất thằng bằng (ở đây là tình trạng "nghĩ bậy") thì lập tức có một sự tự điều chỉnh (Vô Sư Trí chăng?), chấn động tự điều chỉnh này ảnh hưởng từ cái hào quang, qua các trung tâm năng lực và vào hệ thần kinh. Sự rúng động này rất là mãnh liệt và có hiệu năng dập tắt tất cả những tạp nhiễm trải dài từ Thô Tâm và ảnh hưởng đến Vi Tế Tâm! Do cái tình trạng thấm sâu vào Vi Tế Tâm nên cái âm hưởng (ở đây là sự thanh tịnh) nó kéo dài rất là lâu. Trong ứng dụng này, thì sự thanh tịnh ập đến ngay sau khi mình mới niệm chỉ có ba lần.
Khác với khi mình niệm mà không an trú Chánh Niệm: Lúc này chỉ có Thô Tâm niệm mà thôi tuy rằng nó cũng biến mất nhưng nó có lại liền. Cách này là dậm chân tại chỗ y như khi nhảy đầm vậy: Cũng có này có nọ nhưng lại không đi đâu xa cả.
So sánh hai cách công phu trên, mình có thể nói là cách có An Trú Chánh Niệm đằng trước mặt y như cảnh một lực sĩ dùng xà beng thọc sâu xuống đất và bẩy hòn đá (thói quen hay tạp nhiễm) lên. Do cách này, hòn đá lung lay và có thể bị bật gốc. Còn cách niệm mà không an trú thì là cảnh người lực sĩ dùng sức của mình mà xô cục đá. Cục đá có thể lung lây nhưng không thể bậc gốc được.