139. Đồng Sự và chiếu phim hí hí

139. Đồng Sự và chiếu phim hí hí

Tập Tin / Tập Tin V    Xem 408     17 năm trước

Tập Tin V

Bài 139. Đồng Sự và chiếu phim hí hí

Đồng Sự và chiếu phim hí hí

Mon Feb  1 09:44:12 1999

Chào Huynh KKT và các Bạn.

Nếu Bố Thí là cái khó thứ nhất thì *Đồng Sự* là cái khó thứ hai của Bồ Tát.

Chơi với du đãng mà mình không *du đãng* hơn họ thì họ không nể và như vậy: Họ không nghe.

Chơi với bợm nhậu mà mình không uống và tửu lượng không cao, thì họ không thèm nhìn.

Như vậy, chơi với *chị em ta* mà mình *Không Thể Điều Khiển cái Tính Tham Ái* của mình thì họ sẽ đánh giá mình như những khách mua hoa tầm thường khác... Tất nhiên, trong điều kiện *tầm thường* đó: họ sẽ không hơi sức đâu mà nghe những chuyện *Đạo Pháp*.

Thế nhưng chuyện gì cũng có nhân duyên của nó.

Và tất nhiên dụng cụ để biết chắc mình có thể *Đồng Sự* để rồi, có thể mang lợi ích cho họ (Mục Đích của Bồ Tát là: Làm cho họ tỉnh ngộ và khởi tu) không có gì hơn là: Quán tưởng.

Quán là dùng *Chánh Định* rồi hướng cái chánh định đó vào một mục tiêu: Trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp của Nãrada có ghi lại nhiều chuyện về quán tưởng của Đức Phật:

Chương 5: Cung Thỉnh Đức Phật truyền bá Giáo Pháp, đoạn: Trên đường đến Benares (tr. 83, hàng thứ 4 - sách của đệ) có kể lại như sau:

Khi chấp nhận sự thỉnh cầu của Phạm Thiên Sahampati, tư tưởng đầu tiên của Đức Phật trước khi bước lên con đường truyền giáo vĩ đại là: "Ai là người đầu tiên sẽ được thọ hưởng Giáo Pháp? Ai sẽ người lãnh hội mau chóng Giáo Pháp?

Có Alãra Kãlãma là người có học vấn, thông minh, là bậc thiện trí và đã lâu rồi không còn bao nhiêu bụi cát trong mắt. Hay là Như Lai sẽ giảng Giáo Pháp cho vị đạo sĩ nầy trước nhất! Đạo sĩ sẽ lãnh hội mau lẹ Giáo Pháp"

Một vị trời liền hiện ra trước Đức Phật, đảnh lễ Ngài và bạch rằng:

-- "Bạch Đức Thế Tôn, đạo sĩ Alãra Kãlãma đã từ trần một tuần nay".

Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận điều nầy.

Lời bàn: Tụi mình thấy cái Tính cẩn thận của Đức Phật: Lúc nào Ngài cũng dùng những phương tiện độ để kiểm soát lại cho chắc ăn trước khi bắt tay vào việc hoá độ. Sau cùng Ngài để ý đến năm anh em Kiều Trần Như: Sau cùng Đức Phật nghĩ đến 5 vị đạo sĩ tinh tấn đã phục vụ Ngài trong lúc tranh đấu để tìm chơn lý, với *nhãn quan siêu phàm*, Ngài nhận thấy rằng 5 vị nầy đang ở Vườn Lộc Giả, tại Isipatana, xứ Benares. Ngài lưu lại Uruvelã, chờ lúc thuận lợi sẽ lên đường sang Benares.

Lời bàn:

Nhãn quan siêu phàm ở đây, không có gì khác là sự Quán Tưởng về đối tượng đó, cung cách như sau qua kinh nghiệm bản thân: Vào Tứ Thiền, quán một màn ảnh (9cm x 12cm) màu trắng phát nguyện *Độ Sanh*, phát nguyện xong: Màn ảnh phát sáng và trong suốt và dựng đứng (có nghĩa là: Bề đáy của màn ảnh là 9cm). Giữ độ trong suốt đó cho lâu và sau cùng là *Tác Ý* về đối tượng nào đó: Đối tượng sẽ xuất hiện rất rõ cùng với cảnh vật chung quanh họ và một tư tưởng sẽ xuyên qua đầu mình từ bán cầu phải sang bán cầu trái của Não bộ:

-- "Cô Vân đang ở 48 Thi Sách Đà Lạt".

Kế đó, đệ Tác Ý tiếp:

-- Khi nào mới gặp và nói Pháp?

Tư tưởng sau đây lại xuyên qua đầu từ phải sang trái (như trên):

-- "Cô sẽ đến trạm y tế phường 3 để châm cứu và cô sẽ hỏi Pháp tại số … !"

Đệ xuất định và mừng rỡ vô cùng:

-- "…  là nhà của đệ!"

Cô Vân là người thành công đầu tiên trong nhóm lu bu ở Đà Lạt. Kế tiếp là đến Cô Trang trong nhóm, chuyện rằng: nhìn đứa con gái rụ vừa 12 tuổi mà thấy thương! Vì những nhân duyên sâu dầy về sự la mắng, đánh đập vô lý ở những tiền kiếp do cái tính bủn xỉn, tiếc của của đệ mà cho đến nay khi đệ dạy bảo nó thì... nó không nghe hay vì sợ quá mà hay quên. Cũng vì nhân duyên đó mà đệ không thể dạy nó tu hành được! Phải có một người khác để hướng dẫn nó.

Tất nhiên để tìm ra người nầy, chỉ còn một cách là dùng *quán tưởng* mà thôi. Lại áp dụng công thức như đã trình bày ở bài trước: Đệ tìm ra người có nhân duyên với nó: Một cô bé học sinh trường trung học Bùi Thị Xuân Đà Lạt lúc đó chừng 16 tuổi.

Nhân duyên: Ba của cô bị liệt và đi tìm thầy. Tối hôm đó, vì thương cha nên cô ra ngoài thắp hương và khấn rằng:

-- Ai mà chữa lành bịnh cho cha thì cô sẽ theo người đó mà học.

Sáng hôm sau, đệ tới nhà và dùng mạn đà la Văn Thù Sư Lợi để chữa cho ba của cô ta. Ba cô tỉnh lại và nói được. Tất nhiên là cô đòi học cái cách chữa bịnh nầy. Một năm sau, cô leo lên được Tam Thiền và mắc kẹt ở đó. Vào đêm Trung Thu đệ tới nhà cô và nghe cô khoe thành tích tu hành: Đề mục xuất hiện rất rõ đằng trước mặt trong một không gian bao la và rộng rãi, đề mục phát hào quang mạnh mẽ (cảnh giới của những người nhập được vào Tam Thiền Hữu Sắc).

Đệ lại quán tiếp và biết rằng: Trong một tiền kiếp, cô tu ở rất nhiều chùa và đâu đâu, cô cũng gặp toàn là *sư hổ mang* không mà thôi. Vì đau lòng trước những cảnh các Thầy phá giới và làm ô uế cảnh Chùa nên cô phát nguyện rằng:

-- Như vậy, phải có một ông Thầy nằm một đêm tới sáng trên giường với một cô gái đẹp và ông Thầy đó không làm gì cả!"

Biết rõ như vậy đệ bèn rề rà, ngồi ăn khoai lang tán dóc cho tới Ba Má cô lên lầu đi ngủ. Đệ bèn cùng với cô vào phòng và tán dóc tiếp, tán dóc chuyện trên trời dưới đất và cuối cùng đi ngủ ngay trên giường nhỏ xíu của cô (giường đơn). Sáng hôm sau, má cô xuống mở cửa phòng và bắt gặp đệ ở trong đó với cô gái rụ của Bà. Bà kinh ngạc nhìn đệ và không có ý kiến. Sau đó có hai tuần cô nhập được Tứ Thiền và kế đó là Diệt Thọ Tưởng Định và sau cùng là cô chỉ cho con gái rụ của đệ tu hành.

(chuyện còn dài)

Mến.

Hai Lúa.

877
0.085417985916138 sec