101. Cách Thiền của đệ

101. Cách Thiền của đệ

Tập Tin / Tập Tin II    Xem 432     17 năm trước

Tập Tin II

Bài 101. Cách Thiền của đệ

30731- Cách Thiền của đệ

Như lai thiền: Thiền Tiểu Thừa.

Dành cho những người có một tinh thần khoa học cao, không tin vào những điều huyền bí viễn vông, vốn là một người rất nhân hậu và có rất nhiều phước báu điển hình: Họ kiếm tiền rất dễ mà không cần lừa dối ai chỉ dựa vào sự nhân hậu của họ mà thôi.

Vì tự mình đi tìm chân lý, nên họ thường gặp rất nhiều trở ngại và phản ứng phụ khi tu tập. Vì quá tự tin, họ sẽ bị thế giới vô hình lừa dối họ bằng cách cầm chân họ lại, không cho họ tiến tu mà họ không hề hay biết! Như:

* Tạo những linh ảnh rất đẹp để họ ngắm nhìn mà quên mục đích chính của mình là tu giải thoát

* Báo mộng và nhất là dùng giấc mộng để lung lạc niềm tin của họ.

* Tạo những sự việc gần đúng với luận đoán của họ để họ tăng bản ngã lên và quên mục đích chính là giải thoát

* Tập hợp những người lạ lại rồi tuyên xưng họ là Thầy này, Thánh kia

Họ rất lanh lợi trong đời sống hằng ngày nhưng lại rất là ngây thơ trong đời sống tu hành. Thật ra chúng ta nên làm ngược lại thì đúng hơn. Vì kết quả của việc tu tập một cách sai lầm chỉ xảy ra cho họ sau một thời gian rất lâu (từ 6 tới 12 năm): Nên họ không cách gì mà biết được. Quả thật là phức tạp.

Thiền tâm:

Trong Thiền Tông, thường nói đến một trạng thái tâm lý được gọi là tâm thiền. Có nghĩa là một sự thảnh thơi nào đó của tâm lý, hay một trạng thái “Không” nào đó. Sự việc này thường dẫn đến những hiểu lầm rất tai hại, vì nó sẽ đưa chúng ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Và cũng chính nó sẽ làm đảo lộn tâm lý của chúng ta và có thể biến chúng ta thành những người Khùng, điên (Mà những người nhẹ dạ có thể tưởng lầm đó là những vị đã đắc đạo). Để tránh tình trạng trên, chúng ta nên đọc cho kỹ những tài liệu sau:

1. Đức Phật Và Phật Pháp của Narada.

2. Trung bộ kinh (tập ba) của Thích Minh Châu.

Trong những tài liệu trên, còn thiếu rất nhiều những kỹ thuật về thực hành. Để bổ túc vào khoảng đó, tài liệu này chỉ bàn về thực hành, và những phản ứng phụ có thể xảy ra cho chúng ta trong lúc công phu.

Quan niệm cơ bản của đạo Phật.

1. Con người không có linh hồn và tư tưởng.

2. Không một cảnh giới nào làm ta phải khiếp sợ và khuất phục cả.

3. Cố gắng giữ giới luật theo sức chịu đựng của mình.

4. Không được nóng vội, đốt giai đoạn trong lúc công phu.

5. Nên tìm người giỏi hơn mình để đàm luận hữu ích.

Định nghĩa cơ bản.

1. Cận định: Là những phản ứng, cảm giác, hình ảnh xảy ra bất chợt, không báo trước trong lúc đang hay sau khi công phu.

   1.1. Phản ứng: Những cử động bất chợt, không có nguyên nhân trên thân thể.

   1.2. Cảm giác: trên thân (nóng, ngứa, nhột, nghiêng, nổ, lắc, rần, lóe sáng).

   1.3. Hình ảnh: Những linh ảnh hiện ra trước hay sau khi nhập chánh định.

2. Tà định: Tất cả những cách thức công phu dựa vào ngũ quan để tập trung tư tưởng. Ví dụ: Thôi miên; nhìn vào nhang, hay vào mặt trời; niệm sáu chữ A Di Đà chạy lòng vòng trên cơ thể, tập trung tưởng đằng sau ót hoặc có cảm giác nằng nặng, châm chích đằng sau ót hay trên bả vai.

3. Chánh định: Là an trú và làm cho đề mục xuất hiện như thật đằng trước mặt bằng sự tập trung tư tưởng (có bốn mức độ sâu dầy riêng biệt từ Sơ tới Tứ thiền). Ví dụ: Tu sĩ nhắm mắt lại, và tập trung tư tưởng về một ngọn lửa bằng cách: vẽ nó bằng trí tưởng tượng của mình. Cho tới khi: Linh ảnh của ngọn lửa xuất hiện đằng trước mặt mình rõ ràng như thật (nên nhớ là chỉ có một ngọn lửa thôi, chớ không có đèn đuốc gì ở dưới đó cả!).

Một mẫu để vào công phu

(1) Môi trường công phu nên yên tĩnh, an toàn, ban đêm là tốt nhất.

(2) Chọn tư thế thích hợp (ngồi hay nằm) thư giãn, điều hòa hơi thở.

2.1. Cách thức điều thân: Tư thế thiền.

Định nghĩa: Là một tư thế đơn giản, thăng bằng, an toàn, ít bị mỏi. Phân loại: Có hai tư thế thường dùng: Ngồi và nằm.

2.1.1. Ngồi: Ngồi ở đâu, như thế nào cũng được, miễn an toàn thôi. Nếu thích ngồi bán già thì nên theo cách trình bày trong các sách Hatha Yoga (nhớ để bàn chân phải trên bàn chân trái). Nếu chọn tư thế ngồi trên ghế thì nhớ để hai gót chân chạm nhẹ nhau như đang kẹp một tờ giấy.

2.1.2. Nằm: Nằm ở đâu cũng được, miễn an toàn thôi.

2.1.3. Phương hướng: Có những người không hề bị dị ứng với bất kỳ phương hướng nào. Tất nhiên là họ ngồi quay mặt về hướng nào cũng được. Đối với những ai bị dị ứng thì có bốn (4) cảm giác chính sau:

*- Cảm giác không đã, hay không an toàn khi quay mặt về hướng đó

*- Khi công phu bị vặn cổ một cách đột ngột về một hướng khác

*- Cảm giác như bị nghiêng, mà thật ra mình đang ngồi rất thẳng

*- Cảm giác lắc lư nhẹ nhàng, ngay cả lúc nằm cũng vậy.

2.1.4. Giải quyết: Cứ xoay từ từ cả thân hình qua hướng khác (nhớ xoay theo chiều kim đồng hồ)

Ví dụ: Lần này ngồi về hướng Bắc thì lần sau sẽ quay về hướng Đông-Bắc. Nếu lại không được thì lần sau ta lại xoay qua hướng Đông

2.2. Thư giãn:

Định nghĩa: Là không gồng bất kỳ bắp thịt nào không cần thiết trong lúc công phu, vẫn giữ hàm răng khít, và cả cái lưỡi tiếp xúc với hàm ếch (nóc vọng) Mục đích: Tránh vọng niệm thường xuất hiện vào lúc mới vào công phu.

2.2.1. Thả tất cả các bắp thịt: Từ đầu ngón chân, qua các khớp, lên đến đầu. Nếu trong lúc buông thả mà có chỗ nào bị trở ngại thì: Gồng nó lên rồi thả đột ngột như một sợi dây đang căng mà bị cắt đứt đột ngột. Điều thân cho thật sâu rồi mới tiếp tục thực hành...

2.3. Điều tức: Điều hòa hơi thở.

Định nghĩa: Là sự chú ý vào sự ra vào của hơi thở, dựa vào đó, cơ thể có thể thư giãn được dễ dàng hơn. Nên nhớ rằng phương pháp này chỉ đưa tu sĩ đến cận định thôi. Tuy rằng có rất nhiều tài liệu hứa hẹn có thể đến Niết Bàn được.

2.3.1. Sự phân bố khí lực:

Khi hít vào: khí lực bị chận đứng.

Khi thở ra: khí lực được lưu thông.

Vì thế: Nên thư giãn các bắp thịt vào lúc thở ra (thở ra dài hơn hít vào)

2.3.2. Mục đích chuyển tiếp tâm lý từ tình trạng “Cận Định” sang “Chánh định”:

Từ “Cận Định” qua “Chánh Định” là qua hai trạng thái tâm lý rất khác nhau

- Cận định: Tham dục còn rất nhiều (không thể hết được

- Chánh định: Tham dục càng mất đi (tùy theo cao độ nhập định).

Cho nên, khi ta di chuyển tâm lý từ “Cận Định” sang “Chánh Định”, ta sẽ không khỏi bị đảo lộn tâm lý. Như chúng ta sẽ thấy sau này. Bất cứ sự dao động tâm Lý nào đều dẫn đến vấn đề: Tuột định. (sự dao động này do: Mưa, bảo, sấm, tiếp xúc với người ác, nói chuyện quá nhiều)

2.3.3. Khí hóa hơi thở:

Với hai ngỏ vào (mũi, miệng) và hai chỗ chứa (phổi, bụng) ta có ngay sự phân bố Âm (-) Dương (+) như sau:

- Ngả vào: Mũi (+) và Miệng (-)

- Chỗ chứa: Phổi (+) và Bụng (-)

Chúng ta thấy: Nếu ta điều hòa hơi thở mà dùng Mũi (+) và Phổi (+), có nghĩa là (+, +).

Kết quả là ta sẽ bị: Nóng tính, hồi hợp, dễ kích động, khó thư giãn…

Nếu khi thở có sự phối hợp Miệng (-) và Bụng (-) là một hơi thở thuần âm(-, -):

Ta sẽ bị chết vì kiệt dương, yếu xìu, bệnh nặng.

Vì vậy: Ta nên dùng Mũi (+) và Bụng (-):

Âm dương điều hòa: (+, -). Vốn là hơi thở của trẻ thơ!

2.3.4. Thực tập:

Chú ý tới thở ra nhiều hơn là hít vào (thở dài ra nhưng đừng quá mức). Cố gắng tưởng tượng ra những con số của đồng hồ điện tử từ: 1 đến 12 ứng với từng hơi thở ra, vào. Nên nhớ rằng cứ một lần hít vào, thở ra là một con số lại hiện ra càng lúc càng rõ trên một màn TV nhỏ.

Ví dụ: Nhắm mắt lại, khởi sự bằng hít vào, khi thở Ra lại tưởng tượng:

- Con số xuất hiện (mờ mờ) ngay đằng trước mặt, trong một khung hình nhỏ.

- Cứ mỗi lần thở ra lại tác ý cho linh ảnh rõ hơn lên (và có màu vàng)

- Lập lại ba (03) chu kỳ: mỗi chu kỳ là 12 con số trong 12 hơi thở là lý tưởng nhất.

- Chú ý đến việc tác ý vô những con số để làm cho nó rõ hơn.

- Nên chú ý đến sự thư giãn cơ thể và điều hòa hơi thở.. Khó khăn lúc này thì vô kể, nhưng nếu tinh tấn thì... Rồi sẽ quen.

(3) Sửa quần áo đừng bị cấn.

(4) Đọc trong tâm: “Hôm nay, tại đạo tràng (số nhà…, đường...

Chú ý:

- Đối với tu sĩ đã giỏi (Tứ Thiền Hữu Sắc) nên vừa đọc, vừa quán một màn TV trong đó có nguyên cả xóm mình đang ở và căn nhà của mình rõ ràng. Và sau đó thâu gần hình căn nhà của mình lại cho thật rõ.

(5) Con (đệ tử) tên... hay là pháp danh..., tu pháp:.. (Tịnh độ? Hay: Quán đề mục gì? Hay: Vào đàn pháp nào?).

Chú ý:

- Đối với tu sĩ đã giỏi (Tứ thiền), vừa đọc, vừa tiếp tục quán: Trong căn nhà có tu sĩ đang ngồi (nằm) đúng vào nơi mình đang tu.

(6) Nguyện xin chư vị hộ đạo tràng, hộ gia đình, hộ tiền, hộ của: Hộ trì cho… công phu được tinh tấn. Nguyện xin chư vị phước đức tròn đầy, tuổi thọ tăng trưởng. Cùng với... tu hành đến bực Chánh Đẳng Chánh Giác.

(7) Hộ thân:

Giúp cho ta thực hiện công phu được an toàn hơn. Khi hộ thân kỹ lưỡng: những luân xa sẽ được khép chặt lại và tránh được tình trạng xuất hồn mà không tự chủ được (rất thường xảy ra ở Tam thiền)..

Chú ý:

Nếu trước khi nhập định mà thấy: hình một con mắt trái, hoa rơi, người đứng lúc nhúc, nhiều người lúc nhúc nhưng không có ngồi trên hoa sen, nghe tiếng nói bên tai, tức ngực, ngửi được mùi thơm, ngọt, hôi, khét.. Ngừng lại, đừng tập tiếp nữa mà hộ thân lại cho kỹ nếu không sẽ bị cảnh giới chi phối… Rất nguy hiểm!

  * 7.1. Đối với nữ giới: đọc câu:

Ôm, krô-đa-na hùm jah (07 lần) đọc với tần số cao.

Vừa đọc, vừa nhìn vào cơ quan sinh dục để tẩy uế và tránh cảnh giới chi phối trong khi công phu. Rồi lại tiếp tục hộ thân theo cách của nam giới.. (tu sĩ tu Tịnh độ khỏi cần đọc phần hộ thân mà lại vào ngay công phu).

  * 7.2. Đối với nam giới: Dùng “Nhất tự chú vương của Đại trí Văn thù Sư Lợi Bồ Tát”:

Om, triym (đọc: Ôm, tri-dim) hay:

Om, cilihiyam (đọc: Ôm, xi-li-hi-dam).

Đọc trong tâm với tần số cao nhất. Sau đó xuống tần số trầm nhất để đọc lời nguyện..

  * 7.3. Đọc lời nguyện:

- Nguyện xin Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hộ trì cho con trong buổi công phu hôm nay được yên ổn và bình an.

- Nguyện xin các chúng hữu tình cùng tu hành với con đều được bình an.

- Nguyện xin các chư vị: Hộ pháp, hộ đạo tràng đẩy lui tất cả các ác đạo, ác tâm, ác nghiệp ra khỏi chốn đạo tràng (chỗ tu hành).

- Nguyện xin các chư vị thanh tịnh.., đại thanh tịnh..

   * 7.4. Bắt ấn: thường, nên tìm tu sĩ tu đắc pháp Mật tông để truyền ấn thì ấn pháp có tác dụng mạnh hơn. Nếu không có duyên thì tự phát bi nguyện rồi tự tập bắt ấn lấy. Đọc cho kỹ đoạn văn sau, rồi cố hình dung xem nó ra làm sao, rồi bắt ấn theo lời chỉ dẫn.

   * 7.5. Thực hiện: Hai tay chấp ngay trước ngực, co đầu ngón trỏ trái và chạm nhẹ đầu ngón trỏ trái vào giữa khe của hai ngón trỏ và giữa của bàn tay phải, co ngón trỏ phải song song với ngón trỏ trái. Chú ý: mép trong của ngón trỏ phải chạm nhẹ với mép ngoài của ngón trỏ trái. Hai ngón cái để song song khít lại nhau và chạm nhẹ mép ngoài của ngón trỏ phải.

Ghi chú:

Khi bắt bất cứ ấn pháp nào, chúng ta nên bắt với sự thư giãn vừa phải của tất cả các cơ bắp của bàn tay.… (xin cố gắng hiểu cho kỹ).

   * 7.6. Hộ thân: chạm nhẹ ấn vào sáu (6) chỗ sau: Vừa chạm, vừa đọc trong tâm câu chú với tần số cao.

a. Giữa thóp: (huyệt Thần Đình, trong các sách châm cứu có nói tới).

b. Giữa trán: (huyệt Ấn đường).

c. Giữa chỗ lõm ngực phải: (huyệt Vân môn).

d. Giữa chỗ lõm ngực trái: (huyệt Vân môn).

e. Giữa ngực: (huyệt Chiên trung).

f. Giữa miệng.

   * 7.7. Xả ấn: đem ấn đụng da đầu rồi mới xả. Có nghĩa là khi hai tay đụng vào giữa miệng thì đem cả hai tay lên và đụng vào giữa trán và sau cùng là vuốt cả hai tay về hai bên màng tang và ra đằng sau lỗ tai, rồi buông tay xuống sinh hoạt bình thường.

Chú ý: Hộ thân trên chỉ tác dụng lên hệ thần kinh.

Ứng với tình trạng tu cao cấp (từ Tam thiền trở lên), tu sĩ phải quán một hột vịt đứng (hai đầu to bằng nhau) màu vàng trong đó có một người ngồi bắt ấn hộ thân và quán cho họ thực hiện lại những động tác hộ thân vừa nêu trên. Hộ thân này rất tốt với hào quang của tu sĩ. Nên nhớ cho kỹ rằng: Mỗi lần đọc một câu chú để hộ thân, hột vịt lại lóe hào quang. Căn cứ vào mức độ lóe sáng đó, tu sĩ biết được độ vững chắc của sự hộ thân.

Cách tự chọn một đề mục để bước vào công phu

1. Dựa vào đặc tính âm dương của tứ đại:

Với mức độ âm dương thấp tới cao của tứ đại được dự kiến như sau:

                       đất > nước > lửa > gió

   1.1. Đề mục đất: Giúp ta nhập vào Sơ thiền.

Nặn một cục đất có đường kính: 05cm hay 02” sơn lên đó một màu hồng.

   1.2. Đề mục nước: Giúp ta nhập vào Nhị thiền. Lấy một ly nước, dùng bề mặt của nước để làm đề mục.

   1.3. Đề mục lửa: Giúp ta nhập vào Tam thiền. Lấy hình ảnh của một ngọn lửa nhỏ như móng tay út (lửa quẹt ga).

   1.4. Đề mục gió: Giúp ta nhập vào Tứ thiền. Lấy ảnh của một cửa sổ (chính diện hay tả diện), trên đó có một màn mỏng bị gió thổi và đang phất phơ nhẹ nhàng.

2. Dựa vào tính tình của tu sĩ.

   2.1. Nóng tính: (nhạy bén, lanh lợi, nhạy cảm...)

Lấy đề mục nước, hay một hòn bi xanh lơ đường kính 03cm.

   2.2. ù lì: (chậm chạp, lờ mờ, ít nhậy cảm...)

Lấy đề mục lửa, hay một hòn bi đỏ đường kính 03cm. Trong Đại Thủ Ấn hai tổ Tilopa và Naropa đã dùng cách trên (2) để chọn đề mục.

Thực hiện chánh định trên một đề mục: Lửa.

Trước hết chúng ta phải hiểu: Tại sao chúng ta phải thực hiện chánh định? Trong những tài liệu về vũ trụ quan ở Phật giáo có nói tới rất nhiều thế giới trong một không gian rộng lớn được gọi là: Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Vùng không gian này được chia ra làm ba (3) vùng nhỏ hơn, dựa vào những đặc tính chung của từng vùng. Ba vùng đó có tên như sau:

1. Dục giới bao gồm từ: Tha Hóa Tự Tại đến A Tỳ Địa Ngục. Ở đây lúc nào cũng có sự hiện diện của hai giống đực và cái. Hành động của chúng là ăn uống và giao dâm. Tuổi thọ kể từ con người trở xuống đều không bằng nhau.

Những loài trên con người đều có cùng một tuổi thọ nếu ở trên cùng một cung trời.

Chú ý: khi tu sĩ nằm mơ thấy cảnh có con trai, con gái: Tâm mình còn tham dục).

2. Sắc giới: (gồm từ Chư Thiên Sơ Thiền đến Tứ Thiền). Ở đây: Không còn hai giống đực và cái. Không có vấn đề giao dâm và ăn uống. Thức ăn của họ chính là linh ảnh của họ tạo ra trong cơn thiền định. Tuổi thọ họ rất giống nhau trên cùng một cung trời.

3. Vô Sắc Giới (gồm những Chư Thiên từ Không Vô Biên Xứ tới Phi Phi Tưởng Xứ). Ở đây, không còn hình tướng của bất kỳ cái gì nửa. Chỉ gồm toàn là tư tưởng. Tuổi thọ họ rất giống nhau trên cùng một cung trời.

Chúng ta cũng lại biết rằng ở Dục Giới trạng thái “tư duy đứng đầu”. Có nghĩa là ở đây: Hiện tượng này kế tiếp hay đằng sau hiện tượng kia. Khi ta thấy hiện tượng này thì không thể thấy hiện tượng đứng liền sau đó được.

Ngược lại, ở Sắc giới: trạng thái “định lại đứng đầu”. Có nghĩa là, ở đây, hiện tượng này lại ở kế bên hiện tượng kia. Như cái bàn ở kế bên cái ghế vậy. Tương tự như vậy: ở Vô Sắc. Ở đây, khi ta thấy hiện tượng này, thì ta thấy rất rõ hiện tượng đứng liền sau đó.

Vậy, lợi điểm của vấn đề “nhập chánh định” là: Ta có thể biết ngay lập tức bất cứ vấn đề gì! Vì hai hiện tượng, dưới tác dụng của chánh định, đã đứng kề bên nhau.

Đó là lợi điểm để áp dụng nó vào đời sống hằng ngày...

Ví dụ: Thực hiện chánh định nơi luân xa ở yết hầu tu sĩ sẽ không đói và khát.

Thực hiện chánh định nơi điệu bộ và hình tướng: Tu sĩ sẽ biết được tâm lý.

Thực hiện chánh định nơi điệu bộ và ký hiệu: Tu sĩ sẽ biết được ngôn ngữ.

Ở đây, chúng ta chỉ bàn tới việc sử dụng nó vào việc Giải thoát mà thôi.

Cấu trúc và sự hình thành một tư tưởng.

Trước khi vào vấn đề “thực hiện chánh định trên một đề mục”, chúng ta nên biết sơ qua về: Cấu trúc, sự vận hành, và sự tạo nghiệp của một tư tưởng. Vấn đề này có trình bày rất kỹ trong luận “Vi diệu pháp” hay “Tối thắng tập yếu luận” của Thích Minh Châu (02 tập).

Chúng ta để ý đến sự việc xảy ra như sau: (xin đọc chậm rãi, và kỹ)

Tiếng “cạch” do chùm chìa khoá rơi trên mặt bàn.

Khi đem phân tích theo “Vi diệu pháp” ta có kết quả sau:

Sau khi ta nhận thức được sự việc vừa xảy ra như trên, trong một tiếng “Cạch” (biểu thị cho một thời gian rất ngắn) ta biết rằng, hay có một tư tưởng trong đầu ta kết luận rằng: Đó là tiếng động của chùm chìa khóa rơi trên mặt bàn thì tư tưởng đó đã qua năm (05) giai đoạn sau:

   1. Xuất phát từ luồng Bhavanga (cá tánh của ta)

   2. Vào những giác quan: (ở đây gồm: Mắt, tai, và ý).

   3. Làm các giác quan chú ý đến sự việc.

   4. Vào tốc hành tâm (Javana) một cách yếu ớt.

   5. Ra đăng ký tâm và Xác định tâm.

Tư tưởng đó đã di chuyển từ Vi Tế Tâm (1,2,3,4) đến Thô tâm (5) và mất đi một thời gian là mười bảy (17) sát na tâm thức.

Nguyên tắc tạo nghiệp của một tư tưởng.

1. Một tư tưởng sẽ tạo nghiệp khi nó đủ mạnh, có nghĩa là: (2,3,4,5).

2. Một tư tưởng sẽ không tạo nghiệp khi nó không đủ mạnh, có nghĩa là: (1).

Chú ý: Trong năm chập tư tưởng đó: Ta chỉ ghi nhận được chập thứ năm (5.). Còn chập (2,3,4.) chúng ta hoàn toàn không biết gì cả hay hoàn toàn “Vô minh”. Như vậy, để được giải thoát hay giải thoát tri kiến: Chúng ta phải đem cho bằng được sự thanh tịnh đến luồng Bhavanga (cá tánh) và vượt qua nó, để đạt được sự thanh tâm hay an chỉ. Để được giải thoát cho rốt ráo: Tu sĩ nên vào Diệt Thọ Tưởng Định.

Định nghĩa: Luồng Bhavanga:

Là phần đầu của Vi Tế Tâm, nó lúc nào cũng rung động tuy rằng yếu ớt (tu sĩ sẽ cảm nhận điều này khi vào được Tam thiền) nhưng rất khó làm cho nó chấm dứt. Nó được tạo nên: Do, và theo ý tư tưởng cuối cùng của ta, khi ta chết ở kiếp trước. Và chính nó đã âm thầm dẫn ta phải làm việc này việc nọ, ghét người này, thương người kia. Và cũng chính nó đã dìm đắm ta vào biển của nghiệp quả. Như vậy cũng có quá đủ lý do, để chúng ta thực hiện cuộc hành hương từ miền Vô Minh đến miền Giải Thoát qua con đường chánh định.

Con đường này không dành cho những thiên tài, mà chỉ dành cho những ai tự thấy rằng mình phải: Cần cù bù khả năng. Và cho những ai vì tò mò muốn tìm hiểu xem: Giải thoát và giải thoát tri kiến là gì?

Chứng và đắc thiền.

Tưởng tượng một ngọn lửa xuất hiện đằng trước mặt:

1. Khi ngọn lửa chưa xuất hiện, tâm đọc: Lửa.. lửa.. chậm chậm thôi.

2. Khi ngọn lửa đã xuất hiện, tâm đọc: Lửa 1.. lửa 2.. cách nhau một giây.

3. Khi ngọn lửa xuất hiện lần đầu tiên: Tu sĩ mất cảm giác thân thể.

4. Cố gắng thư giãn, đừng nóng vội, đừng thi đua với nhau, đừng tự đắc.

5. Nếu thấy trở ngại: Sám hối và cố gắng giữ giới luật càng kỹ càng tốt.

6. Khi đắc Tứ thiền mới có đủ khả năng thấy đúng một cái gì đó.

7. Nếu chưa hội đủ điều kiện trên (6): Tu sĩ sẽ bị Ma nhập, hay ma cho thấy và sẽ bị chi phối.

8. Nếu có sợ thì: đừng có sợ cái sợ của mình. Khi nhập Diệt thọ tưởng định.

9. Dùng câu: Nhân lành thì quả phải lành để trấn áp cơn sợ hãi.

10. Khi cảm giác có sự hiện diện của Thiên ma, niệm liên tục: Nam mô, Cầu Sám Hối Bồ Tát, liền được toại nguyện..

Chứng: Mới nhập chánh định một vài lần đầu: Chưa được tự Tại.

Đắc: Muốn xuất và nhấp định bao lâu, lúc nào ở đâu cũng được: Gọi là tự tại.

Sơ thiền:

Tu sĩ mất sân hận, và lo sợ, hết nghi ngờ về phương pháp, ít ngủ, tâm từ lăng xăng vô cùng nay chỉ còn năm vấn đề:

1. Tầm: Tìm kiếm đề mục, hay lúc đang cố gắng vẽ đề mục bằng tư tưởng.

2. Tứ: Giữ đề mục càng lâu càng tốt (khoảng từ 01 đến 12 lần đếm).

3. Hỷ: Vui ở ý, miệng mỉm cười do nhập được chánh định.

4. Lạc: Nhẹ nhàng ở thân.

5. Nhất tâm: được xác định do độ trong suốt, rõ ràng, và sự xuất hiện lâu dài của đề mục. Nếu tinh tấn: Không gian quanh đề mục có màu đen tuyền và xa thăm thẳm.

Nhị thiền:

Những kết quả do từ bỏ tham sân si ở trên càng được củng cố và mạnh mẽ. Tâm còn bốn vấn đề:

1. Tứ: Đề mục xuất hiện liên tục từ 12 đến 40 lần đếm.

2. Hỷ: Nên niệm nó và tiến tu dễ dàng hơn. Xin đừng quên.

3. Lạc: Cảm giác nhẹ nhàng, hạnh phúc càng tăng so với Sơ Thiền.

4. Nhất tâm: Đề mục đã phát ra ánh sáng chung quanh.

Tam thiền:

Sự từ bỏ tham sân si càng rõ và mạnh hơn (đời không còn đáng lo nửa cho dù: động đất hay cháy nhà). Tâm chỉ còn ba vấn đề.

1. Hỷ: Nên niệm: Hỷ.. Hỷ.. tới khi có một niềm vui dâng lên ngay ngực và toả ra khắp thân thể... rồi tu tiếp.

2. Lạc: Nhẹ nhàng hơn Nhị thiền nhiều. Hạnh phúc vô cùng!

3. Nhất tâm: Đề mục xuất hiện dễ dàng, có hào quang chói về hướng “cái thấy”.

Bị tức ngực do không hộ thân kỹ, có nguy cơ xuất hồn. Dừng ngay công phu lại: Hộ thân cho kỹ rồi hẳn tập tiếp. (xin coi lại tiểu mục 7.7 của vấn đề Hộ Thân đề mục (7))

Nếu tinh tấn: Giữ đề mục cho lâu và thực hiện công đoạn đổi đề mục được nói rất kỹ ở phần Tứ thiền. Đề mục xuất hiện từ 40 đến 70 lần đếm. Lúc này sự thanh tịnh đã lắng xuống luồng Bhavanga rồi nên tu sĩ cảm nhận có một sự rung động tuy rất nhẹ, nhưng nó cũng làm cho tu sĩ rất khó chịu, và có cảm giác như bị tuột định. Ngay lúc này ta mới đổi đề mục để vào Tứ thiền.

Tứ Thiền:

Những kết quả hết tham sân si gần như lúc nào cũng có bên Ta. Tâm còn hai vấn đề:

1. Lạc

2. Nhất tâm

Ở đây, cố gắng chịu đựng độ chiếu sáng của đề mục và giữ nó càng lâu càng tốt, kế đó đổi đề mục: Quán một khối cầu xanh lơ hay xanh lá cây non (màu xanh lá cây non, sẽ làm cho tâm tu sĩ ít giao động hơn) có đường kính: d = 03cm. Sau khi đề mục xuất hiện dễ dàng: Làm cho nó nhỏ lại bằng cách tập trung vào ngay trung tâm của hòn bi và tác ý làm cho nó nhỏ lại. Sau khi thực hiện thành công 2 giai đoạn trên. Tu sĩ lập lại bài tập trên với những hòn bi có những màu khác nhau như: đỏ, vàng, trắng.

Ghi chú:

Đừng đợi cho đề mục tự mất, mà phải làm cho nó nhỏ lại như hột tiêu (d = 1ly) khi nó vừa hiện hơi lâu một chút (thân hòn bi trong trẻo hơn) thì đổi đề mục ngay, nhớ theo thứ tự từ lớn sang nhỏ. Bất ngờ, thấy rơi một cái (như máy bay rớt xuống khi vào một túi không khí loãng) và một không gian trong suốt bao la xuất hiện càng ngày càng rõ. Tu sĩ đã chứng: Quang Quả Thiên (cung trời đầu tiên của Tứ thiền). Lúc bây giờ, công việc tu tập trở nên đơn giản hơn. Công việc kế tiếp là: Phải ngăn không cho tình trạng an chỉ vừa mới có, chìm xuống luồng Bhavanga.

Quán một màn TV màu trắng như hột gà bóc, tâm đọc thật chậm rãi: Chuẩn bị.. Thuận Thứ.. Cận Hành.. Chuyển Tánh.. An Chỉ.. An Chỉ.. Cho tới khi thấy hơi ngợp thở thì giảm cường độ tập trung.

Tập đi tập lại cho thật nhuyễn rồi mới bước sang con đường Minh sát tuệ.

Ở đây, tu sĩ thường mắc phải sai lầm là hấp tấp trong khi tu tập, lần này đừng để phạm sai lầm nữa, tu sĩ phải từ tốn đừng vội vàng. Phải tập đi tập lại cho thật nhuyễn rồi mới bước vào Minh sát tuệ.

Ghi chú: Khi đọc chậm rãi câu trên, tu sĩ nên lắng tâm để thâm nhập vào ý nghĩa của từng chữ, vì đó là năm (5) chập tư tưởng của Tốc Hành Tâm (Javana).

Minh sát tuệ.

Là trí tuệ quán xét mình hay chứng đắc câu:

Thân này không phải là ta, linh hồn này không phải là ta, tư tưởng này không phải là ta. Nhập từ Sơ thiền tới Tứ thiền (dựa vào đề mục). Kế đó quán một màn TV cho tới khi nó thật trắng.. trắng như hột gà bóc, giữ càng lâu càng tốt: Không gian là màu đen tuyền xa thăm thẳm; màn TV sắc cạnh, màu trắng, dựng đứng (chiều cao là: 12cm, bề rộng là: 09cm).

Tâm niệm: Thanh Tịnh.. Thanh Tịnh.. Thanh Tịnh.. Cho tới khi bị ngợp thật sự, tu sĩ niệm tiếp một niệm quyết định:

Thanh Tịnh!

Kết quả:

Sẽ thấy hình của mình xuất hiện trên TV. Ở đây, tu sĩ lại rất xa lạ với hình ảnh đó: Không biết đó là ai? Tên gì? Ở đâu mà ra cái thằng ngu này đây?.. Nếu có suy nghĩ về Trái đất, lại có cảm giác: Tôi chưa sinh ra ở đó một lần nào!

Diệt thọ tưởng định.

Mục đích của tu sĩ Phật giáo. Ở đây, tu sĩ đã bước vào Chánh Đạo. Còn phần trước chỉ là Tiên đạo hay còn gọi là Tà đạo hay con đường chưa tu được hết. Nếu vào được:

   - một lần:       Tu Đà Hườn;

   - hai lần:        Tu Đà Hàm;

   - bốn lần:       A Na Hàm;

   - bảy lần:       A La Hán.

Con đường đi là phải dựa vào Minh Sát Tuệ và khi niệm cái niệm quyết định (Thanh Tịnh) được nói ở phần trên: Sau khi dùng Minh Sát Tuệ (thường thì nên vào đó một vài lần nữa cho thật là dễ dàng. Tu sĩ ráng vận dụng trí tuệ để niệm “một trong ba pháp ấn”, hay luôn cả ba cũng được:

   1. Đời:          Vô Thường.

   2. Pháp:        Vô Ngã.

   3. Thọ:         Thì Khổ.

Hay niệm: Khổ, Vô Thường, Vô Ngã là lọt vào. Ở đó, nếu tu sĩ có ý niệm về một vật hay một nhân vật nào đó thì: Tu sĩ sẽ là nó, bắng cách tu sĩ sẽ mang hình dáng của nó và cảm nhận được những rung động đặc biệt của nó nếu tác ý không muốn tập nửa thì khi trở về, tu sĩ sẽ nhận thấy rằng: Tim và phổi đều ngưng hoạt động trong lúc đắc quả, thời gian đắc quả tùy theo ý muốn của mình có thể từ 01 giờ đến 07 ngày.

Ngộ đạo.

Thường được nói đến rất nhiều trong các tài liệu về Thiền Tông. Nhưng ít ai biết thực chất nó là như thế nào:

1. Lúc nào tu sĩ có khả năng ngộ đạo?

Lúc tu sĩ chứng và đắc Nhị thiền. Lúc bây gi, tu sĩ ngưng công phu và chuyển sang một trong hai câu hỏi sau:

   1.1. Phật tánh ở khắp mọi nơi, mà sao mình không biết?

   1.2. Vạn vật đồng nhất thể, Tại sao mình không hay?

Biểu hiện của người Ngộ Đạo như thế nào?

Trong khi đang nhập định với tư tưởng trên. Có một lúc tu sĩ cảm thấy mình tan ra hay biến đâu mất và tu sĩ có cảm giác: Mình ở khắp mọi nơi, tuy nhẹ nhưng cảm giác đó gây tác dụng rất mãnh liệt trên hệ thần kinh của tu sĩ. Bằng chứng là tu sĩ bị ngầy ngật trong suốt 24 giờ. Xin nhắc lại cho kỹ: thời gian ngộ đạo rất ít khi xảy ra trong lúc công phu, mà thường xảy ra lúc tu sĩ đang sinh hoạt bình thường hay lúc: đi, đứng, nằm, ngồi. Và nếu không có cảm giác ngầy ngật vừa nói trên là chưa đúng!

Dựa vào đâu mà thiền sư nói người này ngộ, người kia chưa ngộ? Dựa vào thần thông: Với Pháp Nhãn Thanh Tịnh, thiền sư thấy ngay giữa ngực ai đó có một chữ Vạn đường kính: (d = 10cm) màu vàng sáng chói; và ông ta nói ngay, nói một cách không ngượng miệng, nói rất chơn chánh và chánh ngữ rằng: Này Bạn, Bạn đã ngộ đạo! Nhưng tôi có bổn phận phải nhắc với Bạn rằng: Bạn còn cách Phật rất xa! Y như Bạn vừa mới lấy bằng xóa nạn mù chữ thôi. Vì bạn chỉ mới ngộ, còn phải nhập nữa.

TP. HCM. Viết xong ngày 28 tháng 6 năm 1991 lúc 11giờ 58 phút. Đọc và viết lại Tại Utah, lúc ngày 14 tháng 7 năm 1995 lúc 3:07:57pm. Thằng ngọng.

--o--

Hoạt động tâm thức trong công phu.

(Dùng Duy Thức để bàn về Như Lai Thiền)

Do ý thức càng ngày càng mạnh, vì càng ngày càng thanh tịnh nhờ vào việc nhập chánh định. Nên, tu sĩ có thể cảm nhận một cách rõ ràng sự hiện diện của bản ngã qua sự Rung động của luồng Bhavanga khi chứng Tam thiền.

Áp dụng công thức đổi đề mục liên tục, tu sĩ sẽ nâng cao hơn nữa mức độ tập trung tư tưởng để vào Tứ thiền (vùng trời của sự làm chủ tư tưởng).

Ở đây, ý thức dùng niệm: “thanh tịnh” để làm Mạc Na Thức xuất hiện. Dưới tác dụng của niệm “thanh tịnh” được ý thức đọc lên ở trạng thái Tứ thiền, bản ngã văng ra ngoài, bị khuất phục đợt một, và tiếp tục lừa đảo bằng cách cho tu sĩ biết Minh sát tuệ. Thực tế, nếu tu sĩ chấp nhận một cách ngây thơ rằng mình đã được giải thoát, tu sĩ chỉ mới chứng đắc được quả vị Minh Tiên với một bản ngã còn to như thuở nào.

Thế nhưng, do định lực dũng mãnh của ý thức. Tu sĩ lập lại hiện tượng trên và dùng ngay “lý” của Chân Lý, để định nghĩa lại Mạc Na Thức: Khổ.. Vô Thường.. Vô Ngã.. (khi bị ngợp thở dưới tác dụng của niệm “thanh tịnh”). Lúc bấy giờ, ý thức đã đủ lực để “hòa tan” được bản ngã (Mạc Na Thức) hay là ý thức và Mạc Na Thức đã hoạt động đồng bộ, hay đúng hơn: Từ tình trạng không đồng bộ, ý thức và Mạc na thức đã tạo nên một “pháp giới của thói quen vô minh”: A lại gia thức.

Nay, do chúng đã hoạt động đồng bộ nên tu sĩ đã bước sang một thế giới mới của sự: Giải thoát tri kiến hay Đại Viên Cảnh Trí, tới đây con đường đạo pháp lại mở ra hai ngả rẽ rõ rệt:

1. Nếu do ác nghiệp đi trước (giết anh em để đoạt của, giết cha mẹ…) mà tu hành thành công: Tu sĩ sẽ không có cơ hội để nói lại kinh nghiệm tâm linh của mình cho “Con người” nghe điều này, buộc tu sĩ phải vào Niết bàn với quả vị Độc Giác Phật hay Bích Chi Phật.

2. Nếu do thiện nghiệp mà tu thành: Tu sĩ sẽ có cơ hội để nói lại cho “Mọi Người” nghe và thực hành theo kinh nghiệm tâm linh của mình. Tu sĩ lúc này được gọi là: Bồ Tát hay người dẫn đường. Lúc bấy giờ, Niết bàn không còn là cứu cánh nửa. Mà “phương tiện độ và hiệu quả độ” mới thật sự là cứu cánh. Vì tu sĩ chỉ sống để thực hiện cho bằng được 4 hay 6 đại nguyện đã được dõng dạt tuyên bố lúc tu sĩ nhập Diệt thọ tưởng định..

291
1.5156738758087 sec