
4. Kiếp Sống
Tập Tin III
Bài 4. Kiếp Sống
38144- Kiếp sống! Ôi cái rắc rối
Feb 13, 2006
NQS: Huynh HL kể chuyện sang Mỹ để tìm lại con mình đã đi hoang từ kiếp trước. Thoạt nghe thì chả sao, chuyện có vẻ vô bằng cớ nhưng nhà Phật nói cũng nhiều. Thế nhưng ngẫm kỹ mới thấy huynh HL một là hoang tưởng hai là lừa dối mọi người quá xá:
- Cứ cho là một người nào đó kiếp trước là con mình thì chuyện này có nghĩa lý gì không? Xét về mặt thể xác thì chỉ có ai mang 1/2 bộ gen của mình mới là con mình. Dĩ nhiên đây là chuyện luân hồi nên chỉ xét về mặt linh hồn. Vậy thì về mặt diễn đạt cho đúng thì phái nói: Kiếp trước, linh hồn người đó là con mình!!! Câu này có nghĩa lý gì không? Người đó chỉ ở tạm trong cơ thể của con mình, nếu gọi người đó là con mình thì kiếp trước nữa người đó cúng có một cha mẹ khác. Một ngàn kiếp trải qua là có một ngàn cha mẹ khác nhau. Cha mẹ nào cũng ơn cao nghĩa dày, liệu có nên xem một kiếp nào đó là trọng?
- Bây giờ nói về chuyện cha mẹ. Mình hiện nay là cha mẹ của các con mình. Kiếp trước mình cũng là cha mẹ của nhiều con khác, và kiếp trước nữa cũng là cha mẹ của nhiều con khác nữa. Mỗi kiếp trung bình 3-4 con, chưa nói kiếp chuột mỗi kiếp sinh vài trăm con, kiếp ruồi sình vài chục ngàn con... Vậy thì ai là con mình đây? Có phải là tất thảy chúng sinh không? Kiếp trước NQS cũng là con của HL vì lý do nào đó nên giờ lại gặp nhau để tiếp tục cuộc tranh luận của hai bố con. Ông bố thì cũ kĩ cổ đại, cậu con thì mới mẻ thoáng đạt hơn. Cãi nhau đến đứt mạch máu chết, giờ cãi tiếp về đường tu. Hì hì... Những câu nói như thế này có nghĩa lý gì không? Bảo trúng cũng là trúng, bảo sai cũng được.
Một người nào đó bước đến và bảo với mình: Mầy là con tao ở kiếp trước (có thể là chục kiếp trước, nghĩa như nhau); thì câu này có nghĩa lý gì không? Trời ơi, từ thuở vô thủy đến giờ một người đã có bao nhiêu ức vạn triệu kiếp chứ cha mẹ ở kiếp trước nào đó giờ nghĩa lý gì?
Kết luận rút ra: Thế giới luân hồi của huynh HL thoạt xem thì hiếu để rất trọng nhưng xét kỹ ra lại vô cùng bất hiếu, bởi chung quanh mình ai cũng có thể là con mình, ai cũng có thể là cha mẹ mình, mỗi chút bất kính với bất cứ chúng sinh nào cũng là phạm tội bất hiếu với cha mẹ. Mỗi chút bỏ qua khổ đau nào của bất cứ chúng sinh nào (từ con người đến con ruồi, con giun) cũng là bỏ qua khổ đau của chính con mình. Và bất hiếu thứ hai là xem nhẹ cái nghĩa của thể xác kiếp này. Bố mẹ kiếp này chỉ đẻ ra thể xác, có ơn nuôi thể xác chứ linh hồn thì hoàn toàn độc lập. Thậm chí đứa con HL kiếp trước bỏ đi hoang giờ cũng y cái tính vậy.
Xin hãy hiểu thuyết luân hồi của nhà Phật cho đúng chứ đừng hiểu theo kiểu ngô nghê của con người thời cổ đại.
Ma thì chưa biết, những đừng vì thế ai kể chuyện ma cũng nghe. Forum này mê muội lắm rồi mới để xảy ra chuyện tìm con từ kiếp trước mà không ai cãi lại một tiếng, lại còn chúc mừng, bốc thơm nữa chứ.
HL: Chào Huynh NQS cùng các Bạn.
Chung chung thì ai cũng huề tiền như Huynh đã bàn. Thế nhưng chuyện đời không đơn giản là vậy đâu! Đức Phật có cảnh cáo đến chuyện này, khi chỉ dùng hý luận để cố làm sáng tỏ những chuyện về nhân quả, kiếp sống hay tầm ảnh hưởng của các Đức Phật: người hý luận sẽ không tránh khỏi sự sân hận và bị điên.
Tốt hơn hết, nếu thật sự là tò mò (như đệ đây) thì hãy sắn tay áo lên đi tìm cách vào những Tuệ Giác mà chính Đức Phật đã chứng đắc trong đêm thành đạo. Mời Huynh đọc lại đoạn kinh nghiệm này:
Bình Minh Của Chân Lý
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức khỏe và dễ dàng nhập Sơ Thiền (Jhana), tầng thiền mà Ngài đã thành tựu trong buổi thiếu thời [10]. Rồi từ đó dần dần Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an trụ hoàn toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương lau chùi bóng láng, và mọi sự vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác có liên quan đến trạng thái “Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ” (Pubbe-nivasanussati Nana, Túc Mạng Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba kiếp, rồi bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian, rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra đi, Ngài tái sanh vào cảnh nào, có tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sanh vào cảnh này. Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá khứ. Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một, đêm Thành Đạo.
Vận tốc trung bình là trong một giờ thì đệ mò ngược lại được 23 kiếp.
... Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến quá khứ, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ “Tri Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh” (Cutupapata Nana, Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào một kiếp sống khác.
Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người đau khổ, tất cả đều trải qua hiện tượng diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người.
Ngài biết rằng người này, do hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện, nguyền rủa bậc Thiện Trí Cao Thượng, tin tưởng không chân chánh và có nếp sống của người tà kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa đời, đã tái sanh vào những trạng thái bất hạnh.
Ngài biết rằng những người kia, do hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp, biết tôn trọng bậc Thiện Trí Cao Thượng, có đức tin chân chánh và có nếp sống của người có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã tái sanh vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.
Như vậy, với Thiên Nhãn Minh, Ngài mục kích tình trạng phân tán và cấu hợp trở lại của chúng sanh. Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ Nhì mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến tương lai, Ngài hướng tâm thanh tịnh về “Tuệ Hiểu Biết sự Chấm Dứt các pháp Trầm Luân” (Asavakkhaya Nana, Lậu Tận Minh) [11]. Đúng với thực tại, Ngài nhận thức: “Đây là Phiền Não”, “Đây là sự Chấm Dứt Phiền Não”. “Đây là Con Đường dẫn đến chấm dứt Phiền Não”.
Cùng một thế ấy, đúng với thực tại Ngài nhận định: “Đây là Ô Nhiễm”. “Đây là sự Chấm Dứt Ô Nhiễm”. “Đây là con đường dẫn đến Chấm Dứt Ô Nhiễm”.
Nhận thức như thế, tâm Ngài giải thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh).
Được giải thoát, Ngài biết rằng: “Ta đã được giải thoát” [12] và Ngài nhận thức: “Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc cần phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.” [13]
Đây là Tuệ Giác Thứ Ba mà Ngài chứng ngộ trong canh ba, đêm Thành Đạo. Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đến.